Giáo dục khai phóng cổ điển và ảnh hưởng toàn cầu

Philip G. Altbach

Philip G. Altbach là giáo sư nghiên cứu và là Giám đốc sáng lập Trung tâm Giáo dục Đại học Quốc tế của Boston College. E-mail: altbach@bc.edu.

Các ngành khai phóng (liberal arts) đang có dấu hiệu phục hồi trên phạm vi toàn cầu. Trong cuộc chiến giữa giáo dục chuyên môn hoá và giáo dục tổng quát hay còn gọi là giáo dục khai phóng, lâu nay phần thắng hầu như đã nghiêng về giáo dục chuyên môn hoá. Ở hầu hết các nước trên thế giới, giáo dục đại học trang bị cho người học kiến thức để làm việc, thường là kiến thức chuyên môn hoá (chuyên ngành). Ngoài ra, chương trình giảng dạy chuyên ngành hẹp chiếm ưu thế ở nhiều quốc gia – sinh viên trong cùng khoa đều theo một định hướng chuyên ngành cụ thể và tốt nghiệp với kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực đó. Chỉ vài nước, trong đó có Hoa Kỳ, vẫn theo đuổi ý tưởng về nền giáo dục tổng quát cung cấp kiến thức rộng và phát triển năng lực trí tuệ; đây cũng chính là nguyên lý nền tảng của giáo dục khai phóng.

Mặc dầu vậy, thật đáng ngạc nhiên, gần đây giáo dục khai phóng lại trở thành một chủ để nổi bật trong các cuộc tranh luận về giáo dục đại học toàn cầu. Có nhiều lý do. Càng ngày người ta càng nhận ra rằng cả người lao động và người có học thức đều cần các “kỹ năng mềm” như cần kiến thức chuyên môn. Kỹ năng mềm bao gồm khả năng tư duy phê phán, giao tiếp hiệu quả, khả năng tổng hợp các thông tin đa dạng, từ thông tin trong lĩnh vực học thuật đến các thông tin văn hoá xã hội, khả năng phân tích định tính và định lượng đối với các vấn đề phức tạp và không chỉ có thế. Ngoài ra, nền kinh tế thế kỷ 21 không còn bảo đảm một lộ trình nghề nghiệp ổn định. Sinh viên tốt nghiệp đại học đối mặt với một thị trường nhân lực đa dạng, phức tạp và đầy biến động. Chương trình đào tạo chuyên môn hẹp tỏ ra không còn thích hợp với nền kinh tế tri thức đòi hỏi người học phải được trang bị năng lực đổi mới và người ta cũng dần nhận ra rằng nhu cầu nhận được một nền tảng kiến thức rộng và liên ngành làm hồi sinh khái niệm về giáo dục đại học châu Âu thời trung cổ.

Cho đến nay, sự trỗi dậy của giáo dục khai phóng diễn ra không chỉ trong các trường đại học tinh hoa hàng đầu, mà ở phạm vi toàn cầu và với những mức độ khác nhau.

Giáo dục khai phóng

Không có một định nghĩa nào về giáo dục khai phóng được chấp nhận rộng rãi. Đa số cho rằng đó là một cách tiếp cận kiến thức và chương trình đào tạo một cách chi tiết hơn. Giáo dục khai phóng về cơ bản bắt nguồn từ các truyền thống Tây phương – chẳng hạn niềm tin của Socrates vào “cuộc sống thử thách” và lý tưởng của Aristotle về “công dân suy ngẫm”. Tuy vậy trong thảo luận này, chúng ta sẽ đề cập đến những nguồn gốc quan trọng của giáo dục khai phóng không có xuất xứ Tây phương. Luận cứ hiện đại coi các giá trị như tư duy phê phán, kiến thức rộng về các lĩnh vực khoa học then chốt và khoa học nhân văn là hết sức cần thiết trong xã hội hậu công nghiệp phức tạp. Thông thường, giáo dục khai phóng được xem là đối lập với cách tiếp cận giáo dục đại học theo định hướng nghề nghiệp chuyên môn hẹp đang thống trị trong suy nghĩ nhân loại thế kỷ 21. Các luận cứ hiện đại cho rằng giáo dục cần mang lại nhiều hơn, không chỉ là “cung cấp nhân lực” – và rằng xã hội hiện đại đòi hỏi cách tiếp cận rộng hơn và toàn diện hơn cho giáo dục sau trung học.

Các ngành khai phóng không xuất xứ Tây phương

Có lẽ triết lý Khổng giáo Trung Hoa là một minh họa xưa nhất giống với giáo dục khai phóng hiện đại. Khổng giáo truyền thống chú trọng giáo dục tổng quát với cách tiếp cận diện rộng trong quá trình thu nhận tri thức. Hai truyền thống giáo dục quan trọng của Trung Quốc – Luận ngữ Khổng tử ra đời 2.500 năm trước và giáo dục đại học Trung Quốc bắt nguồn từ thời Đông Chu (năm 771-221 trước công nguyên) – có những yếu tố có thể được coi là giáo dục khai phóng. Bộ sách Ngũ Kinh thời đó bao gồm nhiều lĩnh vực kiến thức. Đồng thời, giáo dục đại học Khổng giáo trang bị cho người học những kiến thức tổng quát cần thiết cho các kỳ thi tuyển chọn quan chức trong hệ thống khoa cử phong kiến. Như vậy, truyền thống giáo dục đại học Trung Quốc nhấn mạnh tầm quan trọng của kiến thức tổng quát, trong khi vẫn tôn trọng những truyền thống đạo đức và triết học Nho giáo.

Tuy ít được nhắc đến, có thể nhận thấy một số điểm tương đồng giữa triết lý giáo dục ở Tây phương cổ đại và tư tưởng Nho giáo. Khổng Tử tin rằng con người bẩm sinh là thiện, nên mục đích của giáo dục là “nuôi dưỡng và phát triển bản năng của con người để đạt đến sự hoàn thiện về trí tuệ và đạo đức”. Mặc dù rất khác nhau về cấu trúc tổ chức, về chương trình cũng như mục tiêu đào tạo, giáo dục đại học Khổng giáo và giáo dục khai phóng hiện đại có một nét tương đồng: sự cam kết phát triển ở người học khả năng phản ánh phạm vi kiến thức rộng.

Một điều đáng nói là kỳ thi tuyển sinh đại học quốc gia hàng năm của Trung quốc ngày nay (còn gọi là kỳ thi gaokao) là một sự kế thừa của hệ thống khoa cử phong kiến Trung Hoa. Gaokao bị chỉ trích nhiều nhưng hiện vẫn là kỳ thi tiêu chuẩn ở Trung quốc. Đối chiếu với khái niệm giáo dục khai phóng hiện đại, Gaokao không có điểm tương đồng nào, nhưng lại đòi hỏi thí sinh phải có một nền tảng kiến thức rộng hệt như trong một kỳ thi tuyển quan lại thời phong kiến.

Khác với Khổng giáo về bối cảnh hình thành và cội nguồn trí tuệ, trường đại học Nalanda, phát triển rực rỡ ở miền đông bắc Ấn Độ trong gần một ngàn năm cho đến 1197 (công nguyên), là phản ánh tiêu biểu của nền giáo dục Ấn giáo và Phật giáo truyền thống. Trường đại học Nalanda giảng về Phật pháp, ở thời kỳ đỉnh cao trường có 10 ngàn sinh viên và 1500 giáo sư. Tuy chương trình đào tạo chủ yếu tập trung vào các văn bản tôn giáo, các kiến thức rộng hơn cũng được đưa vào giảng dạy. Trường Nalanda tiếp nhận sinh viên và học giả từ nhiều lĩnh vực kiến thức truyền thống ngoài tôn giáo. Triết lý Phật giáo định nghĩa giáo dục là phương tiện “giáo ngộ” và là một quá trình “khơi dậy tiềm năng bản thân”, một quá trình tiếp thu kiến thức để giải phóng con người khỏi “dốt nát và lệ thuộc”. Cũng như Khổng giáo, Nalanda là một minh hoạ nữa cho một triết lý giáo dục có trọng tâm – trong trường hợp này là kiến thức tôn giáo – đồng thời vẫn tin tưởng rằng một nền giáo dục đầy đủ đòi hỏi kiến thức rộng hơn ở nhiều lĩnh vực.

Mặc dầu vậy, thật đáng ngạc nhiên, gần đây giáo dục khai phóng lại trở thành một chủ để nổi bật trong các cuộc tranh luận về giáo dục đại học toàn cầu.

Trường đại học cổ xưa vận hành lâu nhất thế giói là Al-Azhar ở Cairo, Ai Cập. Kể từ khi thành lập vào năm 975, trường đại học Al-Azhar đã là một trong những trung tâm tư tưởng Hồi giáo quan trọng nhất. Ngay từ đầu, Al-Azhar không chỉ dạy về giáo lý đạo Hồi và luật Sharia (luật Hồi giáo), mà cả triết học, toán và thiên văn do các môn này có liên quan đến đức tin Hồi giáo. Vào thập kỷ 1870, trường Al-Azhar đã mở thêm các ngành khoa học. Trong thế giới Hồi giáo hầu hết chương trình giáo dục sau trung học xây dựng trên nền tảng giáo lý đạo Hồi, nhưng vẫn bao gồm các môn khoa học và nghệ thuật. Điều đó phản ánh một sự nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục toàn diện và một triết lý giáo dục thống nhất.

Như bài viết này đã minh họa, trong nhiều nền giáo dục truyền thống không phải Tây phương, các tổ chức và các nhà giáo dục đã theo đuổi một chương trình đào tạo có phạm vi kiến thức và ngành học rộng. Cho dù trọng tâm, cách tổ chức cũng như yêu cầu cụ thể của các chương trình đào tạo là khác nhau, điểm chung của các nền giáo dục cổ điển với các truyền thống trí tuệ khác nhau là đều tìm kiếm con đường dẫn đến hiểu biết thực tại.

Kết luận

Ngày nay, khi chủ đề giáo dục khai phóng nổi lên ở phạm vi toàn cầu, những truyền thống giáo dục phi phương Tây phong phú này hầu như không được nói đến, thậm chí cả trong các cuộc tranh luận về đề tài này diễn ra ở châu Á. Động lực để xem xét thay đổi chương trình đào tạo giáo dục đại học phải xuất phát từ những vấn đề của thế kỷ 21 và sự cần thiết đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động, nhưng chân lý của giáo dục khai phóng vẫn còn nguyên giá trị như đã có từ thời Khổng Tử, Đức Phật và các nhà hiền triết Hồi giáo.