Điều hướng thực tế chính trị với thực tế xã hội của việc quốc tế hóa có trách nhiệm

Hans de Wit và Chris R. Glass

Ủy ban châu Âu gần đây đã công bố các hướng dẫn của mình về việc giải quyết sự can thiệp của nước ngoài vào nghiên cứu và đổi mới (R&I), một tài liệu (tái) định nghĩa “quốc tế hóa có trách nhiệm” trong giáo dục đại học. Trong khi quốc tế hóa từng được coi là một phương tiện để giải quyết các thách thức của xã hội toàn cầu, thì định nghĩa hiện tại của Ủy ban về “trách nhiệm” hiện ưu tiên an ninh quốc gia và khả năng cạnh tranh kinh tế. Sự thay đổi này – cùng với các quốc gia và khu vực khác – đánh dấu một sự thay đổi đáng kể so với sự phát triển nhanh chóng của hợp tác khoa học quốc tế kể từ những năm 1990, khi chứng kiến ​​sự đồng tác giả xuyên biên giới tăng từ dưới 2% trong tổng số các bài báo trên Web of Science vào năm 1970 lên 23,2% vào năm 2020.

Quan điểm về “quốc tế hóa có trách nhiệm” này đánh dấu một sự thay đổi đáng kể so với việc nhấn mạnh vào “trách nhiệm xã hội”, chẳng hạn như được nhấn mạnh trong định nghĩa về quốc tế hóa năm 2015, thúc đẩy đóng góp có ý nghĩa cho xã hội và kêu gọi các học giả và chuyên gia ủng hộ một cách tiếp cận có đạo đức, toàn diện và bản địa hóa hơn.

Diễn giải chính trị về “quốc tế hóa có trách nhiệm” được thúc đẩy bởi sự tương tác phức tạp của nhiều yếu tố. Căng thẳng địa chính trị gia tăng đã tạo ra một môi trường mà sự hợp tác quốc tế vô tình có thể trở thành phương tiện cho ảnh hưởng chính trị hoặc sự ép buộc. Những lo ngại về hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ không phải là vô căn cứ, với các trường hợp gián điệp kinh tế và chuyển giao công nghệ trái phép được ghi nhận thông qua các kênh học thuật. Ngoài ra, còn có những rủi ro thực sự về việc phá giá đạo đức, khi các tiêu chuẩn đạo đức ít nghiêm ngặt hơn ở một số quốc gia có thể bị khai thác và nghiên cứu sử dụng kép, bị chiếm dụng cho các mục đích có hại.

Tuy nhiên, căng thẳng địa chính trị và lo ngại về an ninh đã dẫn đến sự phát triển trong thuật ngữ “có trách nhiệm”. Sự khác biệt chính là “có trách nhiệm” hiện được đóng khung theo các thuật ngữ chính trị, không phải xã hội, tập trung vào an ninh kiến ​​thức hơn là trao đổi và hợp tác. Như Tommy Shih lập luận, hiện tại nó “tập trung vào các trách nhiệm tùy ý mà các nhà nghiên cứu có khi xây dựng các mối quan hệ quốc tế” và nhắm hẹp hơn vào lợi ích quốc gia hơn bao giờ hết.

Sự thay đổi này trong chính sách của Liên minh châu Âu – giống như những thay đổi ở Úc, Canada, Nhật Bản, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ – đánh dấu một sự thay đổi đáng kể trong hợp tác khoa học quốc tế với tiếng vang của thời Chiến tranh Lạnh nhưng vẫn tồn tại những khác biệt quan trọng. Trong Chiến tranh Lạnh, hợp tác khoa học bị hạn chế rất nhiều theo các đường lối tư tưởng, với sự trao đổi hạn chế giữa các khối Đông và Tây. Không giống như sự phân chia Đông-Tây nhị phân của Chiến tranh Lạnh, các chính sách hiện tại phải điều hướng một thế giới đa cực với các mạng lưới nghiên cứu phức tạp và đan xen. Thách thức nằm ở việc thực hiện nguyên tắc này một cách hiệu quả, cân bằng giữa các mối quan ngại về an ninh với nhu cầu trao đổi khoa học mở theo cách mà các chính sách thời Chiến tranh Lạnh thường không làm được.

Hội đồng Liên minh châu Âu dường như nhận thức được tác động tiêu cực mà việc quản lý quá mức hoặc can thiệp quá mức có thể gây ra đối với khoa học, thể hiện trong nguyên tắc chỉ đạo của chính sách quốc tế hóa có trách nhiệm: “càng cởi mở càng tốt, càng đóng càng cần thiết”. Việc chuyển giao quyền kiểm soát tính cởi mở trong nghiên cứu từ các nhà khoa học sang các tổ chức và nhà hoạch định chính sách có nguy cơ làm suy yếu quyền tự chủ của các nhà khoa học và chính trị hóa các chương trình nghị sự nghiên cứu.

Trên khắp châu Âu, các cộng đồng học thuật đang lên tiếng lo ngại về những hậu quả tiềm ẩn nếu các cân nhắc về an ninh được ưu tiên. Tại Thụy Điển, Agneta Bladh, Cựu Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Thụy Điển, cảnh báo rằng tính chất mở truyền thống của nghiên cứu và quốc tế hóa đang bị đe dọa. Guild, một mạng lưới các trường đại học nghiên cứu chuyên sâu của châu Âu, cũng đồng tình với những lo ngại này. Mặc dù thừa nhận nhu cầu giảm thiểu rủi ro, họ nhấn mạnh rằng các biện pháp như vậy không được cản trở khả năng chung trong việc giải quyết các nghiên cứu khoa học cấp bách đòi hỏi sự hợp tác quốc tế. Những lo ngại tương tự liên quan đến an ninh quốc gia so với hợp tác quốc tế cũng có thể được tìm thấy ở những nơi khác.

Những hàm ý của cách diễn giải chính trị về “quốc tế hóa có trách nhiệm” là đa chiều. Các lĩnh vực như khoa học khí hậu, dịch tễ học và nghiên cứu năng lượng tái tạo, dù không phải là những lĩnh vực có tính bảo mật cao theo truyền thống, có thể phải đối mặt với những thách thức do tính nhạy cảm của dữ liệu và những lo ngại về khả năng cạnh tranh kinh tế. Hơn nữa, những chính sách này có nguy cơ làm gia tăng khoảng cách nghiên cứu giữa các quốc gia có thu nhập cao, trung bình và thấp. Cuối cùng, sự nhấn mạnh mới này vào lợi ích quốc gia có thể làm phân mảnh bối cảnh nghiên cứu, dẫn đến những nỗ lực trùng lặp và tiến độ chung chậm hơn. Những hàm ý này thúc đẩy quốc tế hóa có trách nhiệm theo hướng ngược lại với những gì được ủng hộ trong các lời kêu gọi quốc tế hóa vì xã hội, và thách thức quyền tự do và quyền tự chủ trong học thuật. 

Chúng ta phải tự hỏi mình một số câu hỏi. Ai định nghĩa thế nào là thực hành có trách nhiệm, và thế nào là mở hay đóng? Những hàm ý của các chính sách nhấn mạnh sự gần gũi cần thiết hơn là sự cởi mở có thể có là gì? Quốc tế hóa có trách nhiệm không phải chủ yếu là quốc tế và xã hội thay vì quốc gia và chính trị sao? Cách tiếp cận mới đối với quốc tế hóa có trách nhiệm như một cách bảo vệ lợi ích quốc gia, khả năng cạnh tranh và các giá trị dân chủ tự do không phải là một hình thức quốc tế hóa mới như một mô hình phương Tây sao? Nguyên tắc chỉ đạo không phải là ngược lại sao: càng cởi mở càng cần thiết, càng ít đóng càng tốt?