Hugo Horta là Phó Giáo sư tại Khoa Giáo dục, Đại học Hồng Kông, Đặc khu hành chính Hồng Kông, Trung Quốc. Email: horta@hku.hk.
Jisun Jung là Phó Giáo sư tại Khoa Giáo dục, Đại học Hồng Kông. Email: jisun@hku.hk.
Bài viết này dựa trên Horta, H. và Jung, J. (2024) The crisis of peer review: part of the evolution of science. Higher Education Quarterly: e12511: https://onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/hequ.12511
Tóm tắt: Bình duyệt ngang hàng vẫn là tiêu chuẩn vàng của hoạt động khoa học, nhưng chưa bao giờ dễ dàng được chấp nhận và thường phải chịu nhiều chỉ trích. Điều này đã trở nên nghiêm trọng hơn trong những năm gần đây. Một số thách thức phải đối mặt là thời gian bình duyệt kéo dài, khó khăn của biên tập viên trong việc tìm kiếm những người bình duyệt thực sự, định kiến bình duyệt mang tính thiên vị và thiếu động lực hoặc thiếu công nhận đối với người bình duyệt. Vậy có thể làm gì để cải thiện quy trình bình duyệt ngang hàng của tạp chí?
Do làn sóng đại chúng hóa sản xuất kiến thức gần đây, như một phần của tình trạng “xuất bản hay là chết”, khối lượng bản thảo gửi đến các tạp chí tăng cao gây quá tải cho những người tham gia vào hoạt động và quản lý bình duyệt ngang hàng (tức là biên tập viên và người bình duyệt). Thách thức này đặc biệt nghiêm trọng đối với các tạp chí quốc tế có bình duyệt ngang hàng được lập thành mục bởi Web of Knowledge và Scopus. Các tạp chí này có xu hướng được công nhận nhiều nhất về mặt khoa học, do đó được các trường đại học sử dụng khi tuyển dụng, thăng chức và các đánh giá khác về học giả. Dữ liệu như vậy cũng được các cơ quan tài trợ sử dụng khi đánh giá các dự án và tổ chức.
Các nhà nghiên cứu cũng dựa vào các ấn phẩm trên những tạp chí này để chứng minh trình độ và khả năng nghiên cứu. Trong bối cảnh sản xuất kiến thức một cách đại chúng hóa nhanh chóng (và cạnh tranh), nhiều tác giả phàn nàn rằng bình duyệt ngang hàng mất quá nhiều thời gian. Họ lo ngại rằng các phát hiện nghiên cứu có thể trở nên lỗi thời vào thời điểm tạp chí chấp nhận bản thảo để xuất bản. Thậm chí còn tệ hơn nếu bản thảo bị từ chối và tác giả cần phải nộp lại. Các tác giả cũng phàn nàn rằng các bài bình duyệt thường đưa ra những quyết định không công bằng và thiếu căn cứ, đôi khi dựa trên những bình luận vội vàng, kém chất lượng, thiếu tính xây dựng và ý kiến thiên vị của người bình duyệt, bao gồm cả thành kiến về mặt ý thức hệ.
Mặc dù bình duyệt ẩn danh kép được đưa ra để giảm thiểu thành kiến liên quan đến giới tính, dân tộc, quốc tịch, danh tiếng của tổ chức hoặc thành tích trước đây của tác giả, nhưng một số tạp chí vẫn tiếp tục dựa vào bình duyệt ẩn danh đơn. Ngay cả với quy trình bình duyệt ẩn danh kép, hệ thống bình duyệt ngang hàng hiện tại vẫn tiếp tục vật lộn với vô số thành kiến, độ tin cậy hoặc các tiêu chuẩn đạo đức đáng ngờ.
Nhiều biên tập viên của các tạp chí quốc tế được bình duyệt ngang hàng phàn nàn rằng họ nhận được quá nhiều bài nộp, trong khi phải vật lộn để tìm được những người bình duyệt chất lượng ngay từ đầu. Tỷ lệ từ chối lời mời bình duyệt bản thảo đang tăng và những người thực hiện bình duyệt chất lượng có xu hướng bị choáng ngợp bởi những lời mời bình duyệt liên tục. Có nhiều báo cáo về việc các biên tập viên cần gửi hơn 20 lời mời bình duyệt để tìm một người bình duyệt cho một bản thảo duy nhất. Một phần của thách thức ở đây có thể liên quan đến thực tế là các ban biên tập có xu hướng bị chi phối bởi các nhà nghiên cứu từ các nước phát triển, thường là các cộng đồng nói tiếng Anh và có thể phụ thuộc nhiều vào các nhóm người bình duyệt có nền tảng và nhận thức luận tương tự nhau. Điều này có thể có hai tác động. Đó là tình trạng bị đánh giá thấp của những người bình duyệt từ các chủ đề không chính thống và các nước đang phát triển. Điều này có thể khiến họ tiếp tục bị cô lập khỏi khoa học toàn cầu trong khi ngăn cản các ý tưởng mới xuất hiện và không khai thác được một nhóm người bình duyệt có tiềm năng quan trọng có thể giảm bớt các thách thức như thời gian bình duyệt và thậm chí có thể là chất lượng của các bài bình duyệt.
Những nhà nghiên cứu nhận được nhiều lời mời sẽ phải quyết định số lượng và bản thảo nào để bình duyệt bằng việc xem xét khối lượng công việc ngày càng tăng và nhu cầu tự xuất bản, đôi khi vì mục đích tiếp tục hoặc tiến triển trong sự nghiệp. Các nhà nghiên cứu thường bị buộc phải cẩn thận chọn lọc khi chấp nhận lời mời bình duyệt. Điều quan trọng cần cân nhắc là việc làm người bình duyệt là một loại công việc dịch vụ phần lớn vô hình và thường không được công nhận tại tổ chức nơi người bình duyệt làm việc. Trong một thời gian dài, đây là công việc tự nguyện chỉ dựa trên thiện chí, quyền công dân khoa học và học thuật, bản sắc và nghĩa vụ đối với cộng đồng của một cá nhân.
Hệ thống bình duyệt ngang hàng như chúng ta biết ngày nay tương đối mới, nhưng cuộc khủng hoảng bình duyệt ngang hàng là một phần của sự phát triển liên tục của khoa học. Các giải pháp hiện tại được đưa ra vẫn dựa trên các nguyên lý cốt lõi của hệ thống bình duyệt ngang hàng, cho thấy rằng hoạt động này có nhiều khả năng được tinh chỉnh và cải thiện hơn là bị thay thế hoàn toàn bằng một hệ thống mới.
Có thể làm gì?
Đã có những cuộc thảo luận xung quanh các giải pháp khả thi để cải thiện bình duyệt ngang hàng và một số ngành đã khởi xướng các hoạt động khác nhau. Chúng tôi nhấn mạnh các giải pháp khả thi này xung quanh ba trục.
Đã có những cuộc thảo luận xung quanh các giải pháp khả thi để cải thiện bình duyệt ngang hàng và một số ngành đã khởi xướng các hoạt động khác nhau.
Bao quát hơn
Công việc mà các nhà bình duyệt ngang hàng làm để phục vụ cộng đồng khoa học là vô giá. Mặc dù nhóm các nhà bình duyệt chất lượng khá giới hạn, nhưng có thể mở rộng đáng kể. Điều này có thể thực hiện được bằng cách mở rộng nhóm các nhà bình duyệt cho những người cho đến nay chỉ tham gia bình duyệt ngang hàng theo những cách hạn chế. Ví dụ, các nhà nghiên cứu nữ ít được mời làm bình duyệt hơn so với nam giới. Các nhà nghiên cứu từ các nước đang phát triển cũng có thể tham gia nhiều hơn vào các hoạt động bình duyệt ngang hàng, các nghiên cứu sinh tiến sĩ và tiến sĩ cũng vậy. Sự gia tăng tài liệu và chương trình đào tạo về bình duyệt do các tạp chí, nhà nghiên cứu và cộng đồng khoa học cung cấp có thể được sử dụng để đào tạo và nâng cao năng lực cho các nhóm này nhằm thực hiện nhiều bài bình duyệt hơn cho các tạp chí, nhưng họ cần được các tạp chí và nhà xuất bản đồng hành và khuyến khích.
Cung cấp các động lực
Một điều rõ ràng là chỉ dựa vào các hành vi tự nguyện và có lợi cho xã hội của các nhà nghiên cứu để thực hiện các bài bình duyệt là không đủ. Điều này không có nghĩa là các giá trị này không đóng vai trò là động lực chính để bình duyệt, nhưng cần có các động lực khác. Các động cơ như được trả phí để bình duyệt có thể tạo ra những tác động trái ngược, nhưng các động cơ khác như tạp chí miễn phí xử lý bài báo cho các ấn phẩm truy cập mở dành cho người bình duyệt sau khi hoàn thành một vài bài bình duyệt cho tạp chí có thể được triển khai. Việc bình duyệt ngang hàng được thừa nhận trong các đánh giá dự án và sự nghiệp cũng có thể tạo ra sự công nhận cần thiết của tổ chức.
Cải thiện tính minh bạch
Mặc dù quy trình bình duyệt ẩn danh kép đã cải thiện tính minh bạch, nhưng vẫn chưa đủ. Các bài nộp cho tạp chí có lẽ nên tham gia vào quá trình bình duyệt ẩn danh ba lần, trong đó biên tập viên cũng không biết tác giả và tổ chức của họ là ai. Ngoài ra, nỗ lực giảm thiểu một số khía cạnh liên quan đến định kiến mang nhiều vấn đề cũng rất cần thiết.
Kết luận
Các giải pháp trên có thể có tác dụng điều phối và góp phần giảm thiểu một số vấn đề liên quan đến quy trình bình duyệt ẩn danh. Những giải pháp khác cũng có thể được đưa ra và những giải pháp đã được đưa ra cho đến nay hay một số giải pháp sáng tạo hơn những giải pháp khác đều có xu hướng duy trì các yếu tố chính hiện có của quy trình bình duyệt ẩn danh ở cốt lõi của chúng. Những thách thức hiện tại liên quan đến bình duyệt ngang hàng rất đáng lo ngại, nhưng chúng cũng đại diện cho các cơ hội để bình duyệt ngang hàng thích ứng với một hệ thống khoa học đang phát triển nhanh chóng, có tính tham gia nhiều hơn, phức tạp và toàn cầu hơn, đồng thời thúc đẩy bình duyệt toàn diện, minh bạch và được khen thưởng công bằng hơn đối với các công trình khoa học.