Nghiên cứu và thực tế trong giáo dục đại học: Cần được liên kết tốt hơn

Qiang Zha là phó giáo sư khoa giáo dục, đại học York, Toronto, Canada. E-mail: [email protected].

Tóm tắt: Bài báo này lập luận rằng hiện tại có những khoảng trống đang tồn tại giữa nghiên cứu trong giáo dục đại học và thực tiễn. Sự tách biệt như vậy cho thấy có một sự sai lệch và khoảng cách đang tồn giữa hai mảng, điều này kêu gọi sự tái tư duy và yêu cầu quá trinh chuyển đổi của nghiên cứu trong giáo dục đại học.

Hiện tại có những khoảng trống giữa nghiên cứu giáo dục đại học và thực tiễn, và thông qua bài viết này, chúng ta sẽ cố gắng hiểu cách lĩnh vực nghiên cứu giáo dục đại học có thể được chuyển đổi dựa trên 2 quan sát cơ bản.

Thiếu những nghiên cứu mang tính định hướng tương lai

Ý kiến này chủ yếu dựa trên 2 quan sát. Thứ nhất, lĩnh vực này hiếm có những nghiên cứu mang tính tầm nhìn và sáng tạo, tức là loại nghiên cứu định hướng hoặc định hướng lại giáo dục đại học như một lĩnh vực thiết yếu và các thực thể tổ chức vận hành lĩnh vực này. Nói một cách rõ ràng, hiện nay có những hoạt động giáo dục đại học quan trọng đang dẫn dắt bất kể chương trình nghiên cứu nào. Ví dụ: bây giờ chúng ta thấy một vài thí nghiệm thú vị về việc chuyển đổi các mô hình truyền thống trong tổ chức và cung cấp giáo dục đại học, được dẫn đầu bởi các các tổ chức hay sáng kiến như Đại học Minerva, Đại học Singularity, Trường liên ngành London, Đại học Kỹ thuật Olin and Stanford 2025 (một dự án khám phá tương lai của Đại học Stanford do một nhóm trong trường khởi xướng nhưng nằm ngoài lĩnh vực nghiên cứu giáo dục chính thức). Tất cả đều nhằm mục đích chuẩn bị cho sinh viên những năng lực thiết yếu cho cuộc sống và xã hội trong tương lai, đồng thời giúp sinh viên tận dụng kiến thức để củng cố sức bền, vượt qua sự vô định, và giải quyết các vấn đề phức tạp bằng nhiều phương pháp tiếp cận kỷ luật hơn.

Có thể cho rằng, các tổ chức và sáng kiến như vậy (mặc dù quy mô hoặc số lượng hiện vẫn còn nhỏ) có sự quan tâm đến các mô hình tương lai của giáo dục đại học, và chuẩn bị cho sinh viên sẵn sàng trong môi trường làm việc của các doanh nghiệp và giải quyết các vấn đề chưa được xác định. Tóm lại, đại học là về việc tiếp thu kiến thức một cách sáng tạo và cuối cùng biến sức mạnh của trí tưởng tượng thành một dạng nguồn nhân lực (như Whitehead đã hình dung).

Đáng chú ý, những tổ chức/sáng kiến này xuất hiện trong bối cảnh các trường đại học đang phải đối mặt với sự hoài nghi, ngay cả ở những hệ thống tiên tiến nhất như Hoa Kỳ. Một cuộc khảo sát gần đây do Wall Street Journal và Đại học Chicago thực hiện cho thấy 56% người Mỹ mất niềm tin vào giáo dục đại học, tăng từ 40% vào năm 2013. Sự hoài nghi này mạnh nhất ở nhóm tuổi 18-34 (nhóm tuổi có liên quan nhất đến giáo dục đại học) và những người có bằng đại học. Không ngạc nhiên, bản tin PBS gần đây cho biết số lượng sinh viên giáo dục đại học ở Hoa Kỳ đã giảm từ 20 triệu xuống còn khoảng 15 triệu trong giai đoạn 2015-2023. Chắc chắn, sự hoài nghi như vậy cũng ghi nhận ở các quốc gia khác và sự “bình thường mới” này báo trước nhu cầu thay đổi sâu sắc trong giáo dục đại học trong những năm tới. Mặc dù các tổ chức và sáng kiến nói trên đang dẫn đầu xu hướng thay đổi đó, nhưng chúng thường không nằm trong tầm ngắm của các nhà nghiên cứu chuyên ngành giáo dục đại học, chứ chưa nói đến việc được định hướng bởi các kết quả nghiên cứu.

Nghiên cứu mang tính sáng tạo đòi hỏi sự hướng dẫn của các lý thuyết đổi mới và tiến bộ, nhưng lĩnh vực nghiên cứu giáo dục đại học chưa bao giờ nổi tiếng về việc tạo ra các lý thuyết nguyên bản. Cho đến nay, hầu hết các lý thuyết được áp dụng trong lĩnh vực này đều được vay mượn từ các lĩnh vực bao gồm nghiên cứu tổ chức, nghiên cứu quản lý, xã hội học, khoa học chính trị, triết học, lịch sử, văn học, tâm lý học và thậm chí cả khoa học. Các khuôn khổ lý thuyết được áp dụng phổ biến, chẳng hạn như (chủ nghĩa) thể chế, cấu trúc luận, chức năng luận, lý thuyết phụ thuộc đường lối, hậu/tân thực dân, hậu hiện đại, đa nguyên, lý thuyết phê phán (chỉ để nêu một vài ví dụ) đều xuất phát từ các lĩnh vực đó. Khi nghiên cứu một hiện tượng tồn tại trong thế giới thực trong một thời gian, việc liên hệ nó với một thứ khác trong một lĩnh vực khác là điều thường thấy, do đó việc vay mượn các lý thuyết đã được thiết lập tốt từ lĩnh vực đó. Tuy nhiên, khi chúng ta cố gắng tưởng tượng về một điều gì đó vượt ra ngoài thực tế trong một lĩnh vực, sẽ có cảm giác kích thích và cảm thấy chân thực để bắt đầu từ các lý thuyết tổng thể nguyên thủy trong lĩnh vực đó, theo nghĩa đen là gần với tư duy nguyên tắc đầu tiên, tức là điều mà Aristotle định nghĩa là “nền tảng đầu tiên mà từ đó một sự vật được biết đến”.

Lĩnh vực nghiên cứu giáo dục đại học đang gặp hạn chế trong việc nắm bắt các hoạt động thực tế

Quan sát thứ hai là nghiên cứu giáo dục đại học dường như ngày càng gặp khó khăn trong việc nắm bắt các hoạt động thực tế, điều này có thể được cho là do sự khác biệt giữa xu hướng/bản chất toàn diện của các hoạt động giáo dục đại học và sự phân mảnh tồn tại lâu đời trong lĩnh vực này. Bruce Macfarlane sử dụng ẩn dụ về “quần đảo nghiên cứu giáo dục đại học” để làm sáng tỏ sự chia tách thô sơ giữa các nhà nghiên cứu theo định hướng chính sách và các nhà nghiên cứu định hướng giảng dạy/học tập (theo đó các nhà nghiên cứu và nghiên cứu được tập hợp và cô lập trên các “hòn đảo” của việc “giảng dạy và học tập”, “nghiên cứu chính sách”, “nghiên cứu tổ chức”, “trải nghiệm của sinh viên”, “tài chính và quản trị”, “phát triển chuyên môn”, v.v…). Ông cũng áp dụng phép so sánh với “biển phân ly” để minh họa cách một thế hệ mới các nhà nghiên cứu giáo dục đại học chuyên nghiệp đã tách biệt lĩnh vực này khỏi các môn học nền tảng như xã hội học, tâm lý học, triết học, lịch sử, v.v… Chúng ta không nên quên rằng từ những ngành nền tảng đó, nhiều bộ óc vĩ đại đã đến với lĩnh vực này, chẳng hạn có thể kể tên một vài người như Pierre Bourdieu, Burton Clark, Ray Land, Martin Trow (xã hội học), Alexander Astin, John Biggs, David Boud, Stanley Hall, Wilbert McKeachie, Robert Pace (tâm lý học), Robert Berdahl, Roger Geiger, Guy Neave, Sheldon Rothblatt (lịch sử), Clark Kerr, Lionel Robbins (kinh tế), Jürgen Habermas (triết học), Tony Becher (nhân chủng học), Derek Bok (luật), Ernest Boyer (khoa học/thính học).

Quan trọng hơn, chúng ta cần hiểu rằng các hoạt động giáo dục đại học đang hướng tới một thực tế tích hợp và toàn diện hơn, nơi chất lượng và kết quả của giáo dục đại học ngày càng được đảm bảo thông qua các cách tiếp cận toàn diện. Ngược lại, trong lĩnh vực nghiên cứu, các nhà nghiên cứu thường không kết nối dữ liệu của họ với việc cải thiện trải nghiệm của sinh viên, các nhà nghiên cứu chính sách thường không ý thức được sự phát triển nhận thức của con người, và các chuyên gia về giảng dạy hay giảng viên thường ít có ảnh hưởng đến sự phát triển về chuyên môn học thuật.

Trong tình huống này, sự phân mảnh trong nghiên cứu giáo dục đại học đã phát triển thành một khoảng cách lớn giữa nghiên cứu và thực tế, điều này đương nhiên dẫn đến rắc rối khi cố gắng nắm bắt các vấn đề phức tạp cũng như tạo nên sự hoài nghi và mất lòng tin ngày càng gia tăng đối với giáo dục đại học, như được tiết lộ bởi cuộc thăm dò nói trên, chứ chưa nói đến việc giúp giải quyết. Về vấn đề này, một câu chuyện phổ biến đã được lan truyền về một cựu hiệu trưởng của một trường đại học lớn ở Trung Quốc tuyên bố công khai rằng ông sẽ không tham khảo ý kiến ​​của các chuyên gia giáo dục đại học ngay cả khi gặp phải vấn đề và thay vào đó sẽ tìm đến các học giả trong một số ngành học nền tảng. Giờ đây, với sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI), các nhà nghiên cứu giáo dục đại học sẽ sớm thấy một cuộc khủng hoảng nghề nghiệp sắp đến ngay trước mắt, bởi AI có thể làm tốt hơn nhiều với nghiên cứu phân mảnh, cụ thể hơn là việc các tài liệu, thông tin và dữ liệu thường bị giới hạn trong các lãnh thổ bị hạn chế.

Điểm yếu về tính độc đáo và đổi mới lý thuyết đã dẫn đến nút thắt cổ chai cho lĩnh vực nghiên cứu giáo dục đại học khi nói đến việc tưởng tượng lại tương lai của giáo dục đại học.

Kết luận

Tóm lại, điểm yếu về tính độc đáo và đổi mới lý thuyết đã dẫn đến nút thắt cổ chai cho lĩnh vực nghiên cứu giáo dục đại học khi nói đến việc tưởng tượng lại tương lai của giáo dục đại học. Tình trạng nghiên cứu rời rạc và biệt lập trong lĩnh vực này đã dẫn đến việc không nắm bắt được đầy đủ thực tế của các hoạt động giáo dục đại học, vốn ngày càng đòi hỏi nỗ lực và cách tiếp cận toàn diện. Điều này khiến lĩnh vực trở nên tụt hậu và không thể định hướng lại các hoạt động của mình. Trong tương lai, trước hết, lĩnh vực này cần phải nhận ra những khiếm khuyết về tính nguyên bản của mình, sau đó là hình dung ra giải pháp thông qua đổi mới. Ví dụ, trong một lĩnh vực có ngưỡng đào tạo và chuẩn bị chuyên môn thấp hơn, nó không nên đi tìm việc định nghĩa mình là một ngành học chuyên môn mà thay vào đó, mở rộng phạm vi và nỗ lực để thiết lập tính liên ngành như bản sắc của chính nó và thậm chí trở thành phương châm của mình. Các học giả và nhà thực hành từ các nền tảng học thuật và xã hội khác nhau nên được mời và khuyến khích tổng hợp quan điểm, ý kiến ​​và kinh nghiệm của họ. Tất cả những điều này có thể giúp đảm bảo lĩnh vực nghiên cứu này được điều chỉnh lại theo thế giới giáo dục đại học, hiện nay ngày càng có cách tiếp cận toàn diện hơn đối với việc tổ chức và phổ biến tri thức.