Việc làm sinh viên có phải là sứ mệnh của giáo dục đại học?

Simon Marginson là giáo sư giáo dục đại học tại Đại học Oxford, Giám đốc Trung tâm ESRC/RE về Giáo dục Đại học Toàn cầu, đồng thời là tổng biên tập tạp chí Giáo dục Đại học, Vương quốc Anh. Email: simon.[email protected].

Tóm tắt: Khả năng có việc làm của sinh viên đang được đưa vào giáo dục đại học đại chúng như một trách nhiệm mang tính đạo đức. Mọi người đều muốn có một công việc, và công việc được coi là một quyền của con người. Tuy nhiên, giáo dục đại học sẽ không hiệu quả lắm trong việc chuẩn bị trực tiếp cho công việc, không thể tạo ra việc làm, và câu thần chú về khả năng được tuyển dụng đã cản trở sứ mệnh giáo dục cốt lõi của đại học, đó là sự tự hình thành của sinh viên thông qua việc tiếp thu kiến thức. Điều này đang nổi lên như một cuộc khủng hoảng hiện hữu đối với ngành này.

Gần đây, Dirk van Damme, cựu giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Đổi mới Giáo dục của OECD, đã đặt câu hỏi về việc mở rộng sự tham gia vào xã hội giáo của dục đại học. Dirk van Damme tuyên bố: “Có những dấu hiệu cấp bách cho thấy trình độ đại học cao không chỉ tác động tích cực đến xã hội và nền kinh tế”, đồng thời lưu ý về “tình trạng thiếu việc làm sau khi tốt nghiệp, trình độ quá cao, không phù hợp và các hiệu ứng thay thế (substitution effect)”. Ông nhấn mạnh về “sự quan tâm ngày càng tăng nhanh chóng đối với các chương trình ngắn hạn và các chứng chỉ phi truyền thống – như chứng chỉ vi mô”.

Đồng nghiệp của Van Damme tại OECD, Andreas Schleicher, giám đốc OECD về giáo dục và kỹ năng, cũng đồng ý với các ý kiến này. Ông lập luận tại London vào tháng 3 năm 2023 rằng chứng chỉ vi mô “giúp nhà tuyển dụng nhận được những tín hiệu tốt hơn về những gì mọi người biết và có thể làm”. Đối với các trường đại học, cuộc sống “thực sự rất thoải mái”, ông nói. “Bạn kết hợp nội dung, triển khai đào tạo, kiểm định – bạn có thể nhận được một khoản thuê độc quyền khá cao”. Việc chuyển sang các chứng chỉ vi mô có nghĩa là thực trạng của nhà cung cấp không còn quan trọng nữa. Có vẻ như chứng chỉ vi mô là con đường mới dẫn đến sự bình đẳng.

Thật khó để tin rằng việc kết hợp bằng cấp của tầng lớp trung lưu với chứng chỉ vi mô của đại chúng sẽ tạo ra sự công bằng xã hội, nhưng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các nhà hoạch định chính sách thiên về kinh tế đang mất kiên nhẫn với giáo dục đại học như chúng ta đã biết.

Khung Giảng dạy Xuất sắc của Vương quốc Anh so sánh chất lượng học tập của sinh viên ở các cơ sở và ngành học khác nhau dựa trên mức lương của sinh viên tốt nghiệp. Nó đã bêu xấu một số chương trình là “các khóa học có giá trị thấp” vì lương của sinh viên tốt nghiệp thấp hơn mức trung bình. Ở Úc, chính phủ quốc gia kêu gọi “sinh viên tốt nghiệp sẵn sàng làm việc” và đã tài trợ cho việc phát triển các chương trình cấp chứng chỉ vi mô.

Trong mỗi trường hợp, chẩn đoán vấn đề và giải pháp đều giống nhau: giáo dục đại học phải chủ yếu (hoặc duy nhất) và trực tiếp hướng nghiệp. Ý tưởng về “sinh viên tốt nghiệp sẵn sàng làm việc” tóm tắt điều này. Nhưng giáo dục đại học không phù hợp với mục đích cụ thể này.

Chuẩn bị cho công việc là một trong những nhiệm vụ của giáo dục đại học nhưng chưa bao giờ là nhiệm vụ cốt lõi, chứ đừng nói đó là nhiệm vụ duy nhất. Giáo dục đại học chủ yếu không phải là đào tạo ra những sinh viên tốt nghiệp “có thể tuyển dụng được”. Đó là sự hình thành văn hóa của con người thông qua việc hòa nhập vào kiến thức dựa trên kỷ luật. Sinh viên được hình thành — hay đúng hơn là tự hình thành — thông qua học tập sâu trong các lĩnh vực học thuật và chuyên môn khác nhau. Chính kiến thức chứ không phải khả năng tuyển dụng mới thống nhất được giáo dục đại học.

 

Thật khó để tin rằng việc kết hợp bằng cấp của tầng lớp trung lưu với chứng chỉ vi mô của đại chúng sẽ tạo ra sự công bằng xã hội, nhưng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy các nhà hoạch định chính sách thiên về kinh tế đang mất kiên nhẫn với giáo dục đại học như chúng ta đã biết.

 

Nhiệm vụ bên trong và bên ngoài

Giáo dục đại học có nhiều sứ mệnh, như Clark Kerr đã có lập luận nổi tiếng khi gắn thẻ các trường đại học là “đa trường” (multiversity). Có hai loại nhiệm vụ: nội tại và bên ngoài.

Các sứ mệnh nội tại – cốt lõi cổ điển của giáo dục đại học – là giáo dục sinh viên, và truyền tải, sáng tạo, phổ biến kiến thức. Những nhiệm vụ này định hình tổ chức nội bộ của ngành. Việc dạy và học, học bổng và nghiên cứu đều dựa trên các nguyên tắc nhận thức, chương trình học và các khoa/trường. Hai sứ mệnh nội tại gắn liền với nhau. Việc học đòi hỏi nhiều kiến thức.

Mối liên hệ giữa giảng dạy và nghiên cứu/học bổng là một tiêu chuẩn về bản sắc học thuật và công việc. Giá trị của các hoạt động nội tại này không được đo lường bằng chính sách, thị trường hay tác động xã hội mà được đo lường trong nội bộ, bằng cách sử dụng các công cụ giáo dục như kỳ thi, chấm điểm, bình duyệt và đảm bảo chất lượng học tập.

Đã có một số hình thức giáo dục đại học trong lịch sử. Chúng khác nhau về nhiều mặt nhưng tất cả đều có chung một cốt lõi nội tại. Ở Trung Quốc, thời Tây Chu (1047–771 trước công nguyên) đã đào tạo các quan chức-học giả thông qua việc cho nghiên cứu sâu các văn bản quan trọng. Trong thư viện và các tổ chức học thuật Muset ở Alexandria, trong các tu viện Phật giáo ở miền bắc Ấn Độ như Vikramshila và Nalanda, trong các chương trình học thuật Hồi giáo Địa Trung Hải, trong các trường đại học châu Âu thời trung cổ bắt đầu với Bologna vào năm 1088, trong các mô hình đại học từ Kant và von Humboldt đến John Henry Newman, cho đến mô hình trường đại học nghiên cứu của Mỹ bắt đầu với Johns Hopkins vào năm 1876…, tất cả đều đào tạo sinh viên thông qua việc hòa nhập văn hóa vào kiến thức và học thuật.

Về cốt lõi nội tại, giáo dục đại học có chức năng “xã hội hóa” và “chủ quan hóa”, như Gert Biesta đã nói vào năm 2009. Xã hội hóa có nghĩa là khắc sâu các chuẩn mực xã hội và nghề nghiệp. Chủ thể hóa đề cập đến hiệu ứng “cá nhân hóa” của giáo dục, trong đó sinh viên trở thành những chủ thể tự nhận thức. Biesta nói: “Bất kỳ nền giáo dục nào xứng đáng với tên gọi của nó phải luôn đóng góp vào quá trình chủ quan hóa, cho phép những người được giáo dục trở nên tự chủ và độc lập hơn trong suy nghĩ và hành động của họ”. Bằng cách này, giáo dục đại học chuẩn bị cho sinh viên toàn bộ cuộc sống, bao gồm cả công việc sau này.

Giáo dục đại học cũng có những sứ mệnh bên ngoài, được thực hiện với sự hợp tác của các thể chế xã hội khác, bao gồm chính phủ, người sử dụng lao động, các ngành nghề và cộng đồng địa phương. Biesta đề cập đến chức năng giáo dục của “trình độ chuyên môn”, học cách làm mọi việc, đặc biệt là ở nơi làm việc. Trong lĩnh vực bên ngoài, các tác nhân bên ngoài giúp xác định giá trị của hoạt động. Ở đây, mức lương của sinh viên tốt nghiệp và tỷ lệ việc làm đang có hiệu lực.

Tuy nhiên, chính sách kinh tế thường chỉ tập trung vào việc chuẩn bị bên ngoài cho công việc, như là các nhiệm vụ khác không tồn tại. Chứng chỉ vi mô chuyển giáo dục đại học thành các trình độ chuyên môn và chia nó thành các phần kỹ năng.

Giáo dục và công việc

Nếu chính sách kinh tế đặt ra nhằm thiết kế giáo dục đại học ngay từ đầu chỉ tập trung vào những sinh viên tốt nghiệp có khả năng tuyển dụng được, thì chính sách đó sẽ không coi việc hình thành văn hóa, kiến thức học thuật và mối liên hệ giảng dạy/nghiên cứu làm nền tảng. Nhưng xã hội muốn nhiều hơn từ giáo dục đại học.

Các nghiên cứu phát hiện ra rằng hầu hết sinh viên đều có nhiều mục tiêu trong giáo dục đại học. Họ muốn phát triển cá nhân, đắm mình trong kiến thức chuyên ngành và công việc sau đại học; nó không phải là/hoặc. Trong những năm học tập, nhiều sinh viên tham gia vào công việc cũng như học tập. Nhưng chúng ta không nên xóa nhòa ranh giới giữa giáo dục và việc làm. Đó là những thế giới khác nhau. Vị trí, mục tiêu, giá trị, khung kiến thức và kỹ năng cũng như hành vi bắt buộc của tác nhân là khác nhau. Đào tạo về kỹ năng và khả năng làm việc sẽ hiệu quả hơn tại nơi làm việc. Chấp nhận tính không đồng nhất giữa giáo dục và việc làm là bước đầu tiên trong việc cải thiện sự chuyển đổi và kết hợp giữa giáo dục và việc làm. Ngay cả trong nhiều khóa học nghề, việc chuyển sang làm việc cũng đầy thách thức và mất thời gian.

Giáo dục đại học và công việc được hiểu rõ nhất là có sự gắn kết nhưng lỏng lẻo. Mối quan hệ giữa giáo dục đại học và việc làm không phải là một dòng chảy tuyến tính. Đẩy giáo dục và làm việc vào một quy trình duy nhất – hoặc bằng cách coi chúng về cơ bản giống nhau hoặc phụ thuộc vào cái kia – là vi phạm công việc hoặc giáo dục đại học. Không có giải thưởng cho việc đoán xem cái nào dễ bị tổn thương hơn.

Giáo dục đại học nằm giữa việc học và việc làm. Nó giống như đi học hơn là làm việc. Nhưng chính sách kinh tế muốn nó tái tạo công việc và đánh giá nó theo cách tương tự như công việc.

Nhiệm vụ bên trong và bên ngoài đặt ra chống lại nhau

Một hố sâu đã mở ra giữa chức năng giáo dục nội tại và những kỳ vọng về nghề nghiệp của chính sách và truyền thông. Không cần thiết phải coi giáo dục nội tại là xung đột với sự đóng góp từ bên ngoài, hoặc coi các kỹ năng nghề nghiệp và kiến thức học thuật là tổng bằng không. Nhưng các nhà hoạch định chính sách ở Úc và Vương quốc Anh, cũng như ở một số quốc gia khác, đang nỗ lực hết sức để thiết lập một nhiệm vụ tưởng tượng về vốn con người, sứ mệnh chuẩn bị công việc bên ngoài, không phải bên cạnh mà thay thế cho sứ mệnh giáo dục nội tại.

Khả năng có việc làm đang trở nên gắn liền với nền giáo dục đại học đại chúng với quyền lực đạo đức đáng kể. Mọi người đều muốn có một công việc, và công việc được coi là một quyền của con người. Tuy nhiên, giáo dục đại học không hiệu quả lắm trong việc chuẩn bị trực tiếp cho công việc và không thể tạo ra việc làm – và câu thần chú về khả năng có việc làm đã cản trở sứ mệnh giáo dục cốt lõi của nó, đó là sự tự hình thành của sinh viên thông qua việc tiếp thu kiến thức. Ý tưởng “sinh viên tốt nghiệp sẵn sàng làm việc” cũng tạo ra những kỳ vọng không thể đạt được. Tôi nghĩ điều này đang nổi lên như một cuộc khủng hoảng hiện hữu đối với lĩnh vực này.