Phức tạp nhưng quan trọng: sứ mệnh của giáo dục đại học đối với thị trường lao động

Philip G. Altbach là giáo sư nghiên cứu và thành viên xuất sắc, còn Hans de Wit là giáo sư danh dự và thành viên xuất sắc, cả hai đều tại Trung tâm Giáo dục Đại học Quốc tế, Boston College, Hoa Kỳ. Email: [email protected], [email protected].

Tóm tắt: Giáo dục đại học có nhiều nhiệm vụ và mục đích đa dạng. Ngay từ đầu, nó đã tham gia vào cái mà ngày nay chúng ta gọi là “đào tạo lực lượng lao động”, bao gồm cả việc chuẩn bị sinh viên cho các ngành nghề. Nhưng các trường đại học cũng đã cung cấp một chương trình giảng dạy rộng hơn về khai phóng và tư duy phản biện. Sự nhấn mạnh hiện nay vào thị trường lao động không nên bỏ qua các mục tiêu rộng lớn hơn của giáo dục sau trung học.

Giáo dục đại học là một hiện tượng đa diện phục vụ nhiều mục đích cho cá nhân và xã hội. Nhưng người ta sẽ không bao giờ biết được điều đó từ diễn ngôn chính trị và mạng xã hội ngày nay. Tất cả những gì chúng tôi nghe được là việc đào tạo lực lượng lao động, và đôi khi là những lời chỉ trích các trường cao đẳng và đại học vì là điểm nóng của chủ nghĩa thức tỉnh hoặc những chủ đích khác.

Thực tế là những sinh viên tốt nghiệp đại học kiếm được trung bình trong suốt cuộc đời của họ nhiều hơn so với các đồng nghiệp không tốt nghiệp, thực tế là các trường đại học đã điều chỉnh theo nhu cầu thực tế mới của lực lượng lao động, thậm chí phải đối phó với các hạn chế do COVID-19 áp đặt, và việc tuyển sinh – ngoài một số trường hợp ngoại lệ – đã phục hồi trở lại mức trước đại dịch. Tuy nhiên, khoảng một nửa dân số Hoa Kỳ đã mất niềm tin vào giáo dục đại học và người ta có thể quan sát xu hướng tương tự ở những nơi khác – mặc dù hầu hết các nhà phê bình vẫn gửi con họ đi học sau trung học, ngay cả khi những người chỉ cần tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp ở trong nước cũng có nhu cầu tuyển dụng cao và được trả lương cao.

Một cái nhìn lịch sử về đào tạo lực lượng lao động

Các trường đại học luôn tham gia vào lĩnh vực mà ngày nay chúng ta gọi là đào tạo lực lượng lao động. Trường đại học đầu tiên ở châu Âu — Đại học Bologna, được thành lập ở Ý vào năm 1088 — đào tạo những chàng trai trẻ về giáo hội, luật và y học. Nhưng nó cũng cung cấp cái mà ngày nay chúng ta gọi là giáo dục khai phóng (giảng dạy về toán học, nhân văn và logic), cũng như các trường đại học khác được thành lập sau đó. Những người sáng lập Đại học Harvard than phiền về việc thiếu hụt các mục sư cơ đốc có trình độ học vấn cao và thành lập trường đại học của họ vào năm 1636, cung cấp đào tạo về thần học, cũng như các nội dung đào tạo tổng quát kiểu Anh và sớm đào tạo các lĩnh vực chuyên môn khác.

Sau đó, trong Nội chiến Hoa Kỳ, vào năm 1862, Abraham Lincoln đã ký Đạo luật cấp đất cho các hoạt động “mang lại lợi ích cho nông nghiệp và cơ khí”. Các trường đại học công lập mới, chẳng hạn như Đại học Michigan và Đại học Wisconsin, cùng với một số trường tư thục mới như Đại học Johns Hopkins và Đại học Chicago, đã cống hiến hết mình để đào tạo những sinh viên tạo động lực cho Hoa Kỳ nổi lên như một cường quốc công nghiệp, tất cả đều kết hợp các loại hình giáo dục khai phóng khác nhau với việc chuẩn bị cho việc làm. Ở Pháp, sau cuộc cải cách năm 1808 của Napoléon, đã thành lập các trường Grandes Écoles có uy tín và định hướng nghề nghiệp tồn tại cho đến ngày nay.

Khi hầu hết các nước Mỹ Latinh tự giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha vào thế kỷ 19, các trường đại học đã được thành lập để phục vụ nhu cầu chuyên môn và dạy nghề. Xuất phát từ một truyền thống trí tuệ rất khác, Trung Quốc đã thành lập các học viện vào thế kỷ thứ tám để cung cấp giáo dục về kinh điển Nho giáo, và sau đó đào tạo thanh niên cho cơ quan dân sự của triều đình, từ đó cung cấp một hình thức đào tạo lực lượng lao động.

Nghiên cứu cũng trở thành một phần quan trọng của sứ mệnh giáo dục đại học. Các trường đại học nghiên cứu được phát minh ở Đức vào thế kỷ 19 khi Đức đang nổi lên như một cường quốc. Hoa Kỳ và Nhật Bản đã áp dụng ý tưởng trường đại học nghiên cứu. Ở những nơi khác, chẳng hạn như ở Pháp, Liên Xô và Trung Quốc, hầu hết nghiên cứu được thực hiện ở các viện chuyên ngành – và các trường đại học tập trung vào giáo dục và đào tạo nghề.

Mở rộng trong thế kỷ XX

Các trường đại học hiện đại nổi lên như một tổ chức hùng mạnh và rất thành công, cung cấp đào tạo cho các nền kinh tế ngày càng phức tạp, nghiên cứu khoa học đóng góp cho cả kiến thức cơ bản lẫn đổi mới ứng dụng, và trong nhiều trường hợp, một nền giáo dục rộng rãi góp phần vào sự hiểu biết về xã hội và tư duy phê phán.

Các loại hình trường đào tạo sau trung học khác nhau xuất hiện trong thế kỷ 20 để phục vụ nền kinh tế phức tạp hơn bao giờ hết và số lượng sinh viên chưa từng có. Do đó, giáo dục đại học đã chuyển từ chỗ dành riêng cho giới thượng lưu sang phục vụ đại chúng, ngày càng được coi là cần thiết cho sự di chuyển xã hội và cung cấp kiến thức cần thiết để thành công. Học thuật đã chuyển từ một khu vực nhỏ ưu tú sang một hệ thống các tổ chức rộng lớn và đa dạng phục vụ nhiều nhu cầu xã hội, kinh tế và cá nhân.

Tại Hoa Kỳ, các trường cao đẳng cộng đồng đã mở rộng vào giữa thế kỷ 20 để phục vụ như những tổ chức “mở cửa” cung cấp đào tạo nghề (nơi làm việc), nhưng đồng thời cung cấp giáo dục phổ thông cho sinh viên. Bốn mươi phần trăm sinh viên ở Hoa Kỳ theo học các trường cao đẳng cộng đồng. Ở châu Âu, giáo dục chuyên nghiệp phục vụ mục đích tương tự. Trên toàn cầu, các hệ thống học thuật sẽ thành công hơn khi chúng đa dạng, với các trường đại học nghiên cứu chọn lọc, các cơ sở tiếp cận đại chúng và các trường tập trung vào dạy nghề, thường có sự kết hợp giữa các trường công và tư.

 

Trên toàn cầu, các phương tiện truyền thông và chính phủ bị ám ảnh bởi “phát triển lực lượng lao động” hoặc các nhu cầu nghề nghiệp khác

 

Yêu cầu của thế kỷ XXI

Trên toàn cầu, các phương tiện truyền thông và chính phủ bị ám ảnh bởi “phát triển lực lượng lao động” hoặc các nhu cầu nghề nghiệp khác. Thực tế là hầu hết các cơ sở giáo dục đại học luôn tham gia vào việc đào tạo nhân lực để tìm việc làm – trong các ngành nghề và các lĩnh vực khác. Nói chung, họ có sự tập trung kết hợp giữa nghề nghiệp và chuyên môn với các mục tiêu giáo dục rộng hơn. Về mặt đó, sự phân chia giữa các trường đại học nghiên cứu và các trường chuyên nghiệp là một điều hoang đường. Ngày càng có nhiều trường đại học nghiên cứu kết hợp cả hai (chẳng hạn như sự xuất hiện của thạc sĩ chuyên nghiệp một năm và thạc sĩ nghiên cứu hai năm, và sự xuất hiện của tiến sĩ chuyên nghiệp bên cạnh tiến sĩ). Tương tự, trong lĩnh vực giáo dục chuyên nghiệp ngoài đại học đang có xu hướng quan tâm nhiều hơn đến nghiên cứu (thể hiện ở việc đổi tên thành “các trường đại học khoa học ứng dụng”) và hướng tới đào tạo tiến sĩ, thậm chí còn kêu gọi trở thành các trường đại học nghiên cứu. Tại Hoa Kỳ, một số trường cao đẳng cộng đồng hiện nay cấp bằng cử nhân.

Chưa bao giờ giáo dục đại học lại quan trọng hơn thế. Hầu hết mọi người ngày nay đều có nhiều hơn một công việc hoặc thậm chí nhiều hơn một chuyên môn trong suốt sự nghiệp của họ. Và với thị trường việc làm thay đổi với tốc độ kỷ lục, điều này gần như trở thành một điều cần thiết.

Sự tập trung hiện nay vào trí tuệ nhân tạo và ý nghĩa tiềm tàng của nó đối với tương lai của công việc và các ngành nghề đã phóng đại thực tế này. Trí tuệ nhân tạo, toàn cầu hóa, cũng như những phát triển công nghệ khác của thế kỷ 21 và những phát triển khác, sẽ có tác động mạnh mẽ – chúng ta chỉ không biết hướng đi của cuộc cách mạng việc làm sắp tới.

Điều này có nghĩa là, cùng với những điều khác, giáo dục sau trung học cần cung cấp “kỹ năng mềm” và kiến thức rộng có thể cần thiết cho một tương lai chưa xác định. Nói cách khác, để làm những việc mà nó luôn làm nhưng với hiệu quả cao hơn và hiểu biết hơn về các tình huống có thể xảy ra trong tương lai. Hơn nữa, định hướng này không nên chỉ giới hạn ở khu vực ưu tú của giáo dục đại học mà phải dành cho tất cả mọi người.

Cần có một hệ thống đa dạng, giải quyết các nhu cầu xã hội khác nhau cũng như yêu cầu của lực lượng lao động. Điều đó đặc biệt đúng đối với các nước có thu nhập thấp và trung bình, nơi giáo dục sau trung học cần được đa dạng hóa hơn nữa.