Marco Seeber là giáo sư tại Đại học Agder, Kristiansand, Na Uy. Email: [email protected]o.
Tóm tắt: Lĩnh vực nghiên cứu giáo dục đại học đã tăng trưởng 5 lần trong 20 năm qua, và các tạp chí giáo dục đại học ngày càng nhiều hơn. Hậu quả của việc bình duyệt là gì?
Sản phẩm nghiên cứu giáo dục đại học đã tăng gấp 5 lần trong 20 năm qua, từ 630 bài báo năm 2002 lên 3279 bài báo năm 2022. Sự tăng trưởng này được củng cố bởi số lượng bài nộp cũng gia tăng một cách đáng kinh ngạc. Hiện các tạp chí lớn nhất trong lĩnh vực của chúng tôi nhận được hàng nghìn bài báo để đánh giá. Liệu việc thay đổi quy mô như vậy có ý nghĩa gì đối với quá trình quản lý và bình duyệt của các tạp chí giáo dục đại học?
Số lượng và độ phức tạp lớn đặt ra một vài thách thức có liên quan chặt chẽ với nhau đối với các tiêu chuẩn và quy chuẩn chuyên môn cho quá trình bình duyệt. Bài viết này thảo luận về những cân nhắc và các giải pháp khả thi dựa trên kinh nghiệm từ lĩnh vực khác và sự hiểu biết sâu sắc từ nghiên cứu về việc bình duyệt.
Tính nhất quán của quy trình biên tập
Một trong những vấn đề của việc bình duyệt mà ai cũng biết đó là mức độ đồng thuận thấp giữa những người bình duyệt: số phận của một bản thảo thường được quyết định bởi việc lựa chọn người bình duyệt, hay còn được gọi là vấn đề “bốc thăm người bình duyệt”. Mong muốn là có được một mức độ nhất quán nào đó giữa đánh giá của những người phản biện, cũng như chất lượng và tính kịp thời của quá trình bình duyệt không bị khác biệt lắm giữa các bài khác nhau nộp vào cùng tạp chí. Tuy nhiên, trong khi một tổng biên tập – với sự hỗ trợ của vài biên tập viên có thể xử lý hàng trăm bài gửi mỗi năm, thì hàng nghìn bài gửi sẽ cần nhiều biên tập viên và thường là một số tổng biên tập. Càng nhiều biên tập viên tham gia thì càng khó duy trì các tiêu chuẩn biên tập đồng nhất. Người ta cho rằng các tạp chí nên đảm bảo để về mặt hệ thống tỷ lệ từ chối và thời gian xuất bản không thay đổi giữa các biên tập viên.
Các số đặc biệt có thể gây ra thách thức khác đối với tính nhất quán của biên tập. Trong khoảng thời gian ngắn, các số phát hành đặc biệt là một mũi tên giết chết hai con chim: vừa thu hút người gửi bài, vừa không tạo thêm gánh nặng cho biên tập viên. Tuy nhiên, biên tập viên không nên ủy quyền hoàn toàn việc quản lý quy trình phản biện cho biên tập viên khách mời để tránh làm suy giảm danh tiếng của tạp chí theo thời gian; họ nên giám sát quá trình bình duyệt và yêu cầu đánh giá độc lập.
Tìm người đánh giá
Đánh giá ngang hàng dựa trên nguyên tắc tình nguyện – các nhà khoa học xem xét bài viết của người khác vì một mặt, họ thích thú với điều này, và mặt khác vì ý thức có đi có lại và phục vụ cộng đồng học thuật của họ. Tuy nhiên, việc tăng cường sử dụng các thước đo hiệu năng để tính số ấn phẩm và trích dẫn sẽ không khuyến khích các hoạt động không được đo lường bằng những thước đo đó. Điều này góp phần giải thích tại sao các biên tập viên khó tìm được người đánh giá. Một cộng đồng ngày càng mở rộng và các tạp chí lớn hơn có thể làm trầm trọng thêm những vấn đề này bằng cách làm suy yếu nguyên tắc tự nguyện và có đi có lại của cộng đồng: động lực đánh giá sẽ mạnh mẽ hơn khi nhận được lời mời từ một người mà bạn biết hoặc người có thể xử lý bài của bạn trong tương lai, so với khi lời mời đó đến từ những biên tập viên vài năm lại thay đổi.
Ngoài ra các bằng chứng cho thấy có một tỷ lệ nhỏ các nhà khoa học thực hiện một số lượng bình duyệt rất lớn và việc tăng quy mô thậm chí còn tạo thêm cơ hội hưởng lợi. Có lẽ việc chia sẻ dữ liệu bình duyệt giữa các tạp chí trong lĩnh vực nhằm giám sát việc chấp nhận bình duyệt có thể hạn chế được vấn đề hưởng lợi này, nhưng làm như vậy có thể làm cho việc bình duyệt trở thành một kiểu nghĩa vụ và nuôi dưỡng tư duy công cụ. Việc thưởng bằng tiền hoặc thưởng không phải bằng tiền cho người đánh giá được chứng minh là hầu như không có hiệu quả trong việc thu hút người đánh giá và có khả năng gây hại đến chất lượng bình duyệt. Việc yêu cầu tác giả đề xuất người phản biện cũng cần được thực hiện một cách cẩn thận, bởi vì những người phản biện như vậy thường đánh giá tích cực hơn so với những người phản biện do biên tập viên chọn lựa.
Các học giả không muốn xem xét những bài viết có chất lượng kém hoặc những bài viết không phù hợp với chuyên môn của họ. Do đó, người biên tập nên chọn lọc, mời người đánh giá một cách thận trọng và cá nhân hóa những lời mời đó. Nhà xuất bản có thể phát triển các công cụ mới để xác định người đánh giá tiềm năng bằng cách khai thác dữ liệu sẵn có ngày càng tăng và kỹ thuật xử lý ngôn ngữ tự nhiên. Là thành viên ban biên tập không đơn thuần chỉ là giữ một vai trò được kính trọng; cần rà soát thường xuyên và có hệ thống. Điều này sẽ góp phần giải quyết tình trạng thiếu người đánh giá, nuôi dưỡng ý thức cộng đồng và giúp duy trì các tiêu chuẩn đánh giá đồng nhất hơn.
Ngoài ra các bằng chứng cho thấy có một tỷ lệ nhỏ các nhà khoa học thực hiện một số lượng bình duyệt rất lớn và việc tăng quy mô thậm chí còn tạo thêm nhiều cơ hội hưởng lợi.
Quản lý số lượng
Mặc dù biên tập viên nên chọn lọc và tránh đưa những bản thảo kém đến tay người đánh giá, nhưng cũng đừng chọn lọc quá mức. Một số lĩnh vực đáp lại việc các sản phẩm khoa học tăng trưởng ồ ạt bằng một quy trình bình duyệt cực kỳ khó khăn và tốn thời gian. Chọn lọc quá mức không hẳn là chất lượng tốt hơn và thường dẫn đến việc từ chối những đóng góp sáng tạo nhất. Hiện tượng này được thấy trong các lĩnh vực như y học, trong đó các tạp chí ưu tú thường từ chối những bài báo được trích dẫn nhiều nhất, và trong khoa học máy tính thì các hội nghị có tỷ lệ chấp nhận 10-15% lại có ảnh hưởng thấp hơn so với các hội nghị có tỷ lệ chấp nhận 15-20%.
Giám sát chất lượng
Người đánh giá có quyền truy cập hạn chế vào dữ liệu chính. Áp lực xuất bản ngày càng tăng có thể thúc đẩy nhiều tác giả khai thác sự bất cân xứng về mặt thông tin này. Có những thực tiễn biên tập mới được chứng thực, chẳng hạn như cung cấp dữ liệu làm cơ sở nghiên cứu cho người đánh giá và có thể cả cho người đọc. Hơn nữa, áp lực xuất bản tạo ra một thị trường ngày càng tăng cho các tạp chí săn mồi, không phải lúc nào cũng dễ dàng phát hiện ra. Các tạp chí như vậy giả bộ thực hiện quy trình bình duyệt nghiêm ngặt, trong khi chấp nhận hầu hết mọi bài nộp để đổi lấy “phí truy cập mở”. Tính minh bạch trong việc đánh giá ngang hàng — đòi hỏi phải công bố các báo cáo bình duyệt — có thể giúp duy trì các cơ quan báo chí hợp pháp bằng cách chỉ ra chất lượng quá trình đánh giá của họ.
Tìm biên tập viên
Chủ nghĩa tự nguyện cũng quan trọng đối với biên tập viên. Nếu việc quản lý quá trình bình duyệt hàng chục bài báo mỗi năm là một nỗ lực tự nguyện hợp lý, thì việc quản lý hàng trăm bài báo khó có thể coi là công việc tình nguyện. Tải quá lớn có thể khiến công việc của người biên tập trở nên kém hấp dẫn, có nguy cơ chỉ những người ít thâm niên mới sẵn sàng làm việc đó, chỉ vì mục đích nghề nghiệp và trong thời gian ngắn, dẫn đến tỷ lệ luân chuyển cao và thiếu kinh nghiệm. Hơn nữa, có sự xung đột ngày càng tăng giữa những biên tập viên hàn lâm coi trọng chất lượng và một số nhà xuất bản mà lợi nhuận của họ ngày càng phụ thuộc vào phí truy cập mở và những người quan tâm đến việc tăng số lượng lớn các bài xuất bản. Một số nhà xuất bản đã giải quyết mâu thuẫn này bằng cách loại các học giả khỏi vai trò biên tập và giao vai trò này cho nhân viên của họ. Trong tương lai, sự thay đổi như vậy ở quy mô lớn hơn có thể là mối đe dọa lớn nhất đối với chất lượng và tính toàn vẹn của hoạt động bình duyệt trong lĩnh vực của chúng tôi.