Yanru Xu là Nghiên cứu viên sau tiến sĩ và Ji’an Liu là Giáo sư tại Trường Quản lý và Chính sách Công, University of Chinese Academy of Sciences, Trung Quốc. Email: xuyanru@ucas.edu.cn và jian.liu@ucas.edu.cn.
Tóm tắt
Bài viết này cung cấp một cái nhìn tổng thể về những xu hướng phát triển của giáo dục sau đại học ở Trung Quốc trong hai mươi năm qua bằng cách xem xét mức độ mở rộng khác nhau của các cấp độ, loại hình, ngành học và thành phần giới tính. Ngoài ra, bài viết cũng phân tích những động lực dẫn đến sự phân hóa rộng do nhu cầu trong nước về giáo dục sau đại học và về nâng cấp nghiên cứu và phát triển nhân lực; và đề cập đến tiềm năng phát triển trong tương lai.
Vào ngày 25 tháng 12 năm 2021, khoảng 4,57 triệu ứng viên đã tham gia kỳ thi tuyển sinh sau đại học toàn quốc ở Trung Quốc, đánh dấu năm thứ 6 liên tiếp có tỷ lệ tăng trên 10%. Điều này cho thấy nhu cầu rất lớn đối với đào tạo sau đại học nội địa, tại thời điểm Trung Quốc đang đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế tri thức tập trung. Khi tri thức và sự đổi mới đã thay thế cho tư bản và năng suất lao động trong vai trò động cơ thúc đẩy sự phát triển và thịnh vượng của quốc gia, cùng với việc giáo dục đại học trên toàn thế giới đang chuyển sang giai đoạn phổ cập và đại chúng, nhiều quốc gia đã và đang mở rộng đối tượng sinh viên tham gia vào giáo dục sau đại học để chuẩn bị cho tương lai. Chủ yếu sử dụng dữ liệu từ Bộ Giáo dục và Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc, và một số dữ liệu bổ sung từ Ngân hàng Thế giới, UNESCO và Quỹ Khoa học Quốc gia ở Hoa Kỳ, bài viết này cố gắng mô tả những xu hướng phát triển của giáo dục sau đại học ở Trung Quốc; điều này có thể mang lại một số gợi ý cho những quốc gia khác đang nỗ lực nâng cấp lực lượng lao động của mình.
Phân hóa rộng hơn trong cấp độ, loại hình và ngành học
Từ sau Cải cách và Mở cửa năm 1978, Trung Quốc đã chứng kiến sự phát triển chưa từng có của giáo dục sau đại học, với tổng số sinh viên theo học tăng mạnh từ khoảng 10 ngàn người năm 1978 lên 128.484 người năm 2000, và tiếp tục tăng thành 1.106.551 người vào năm 2020. Trong hai thập kỷ vừa qua, số lượng sinh viên theo học bằng thạc sĩ tăng gấp 9,62 lần, từ 102.923 lên 990.504, trong khi số lượng người theo học tiến sĩ tăng gấp 4,62 lần, từ 25.142 lên 116.047.
Về loại hình giáo dục, hai thập kỷ qua chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của giáo dục sau đại học chuyên nghiệp ở Trung Quốc. Những chương trình sau đại học chuyên nghiệp xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1991, với một tỷ lệ lớn đăng ký học là những sinh viên phi chính quy tốt nghiệp mà không có bằng cấp. Tình trạng này kéo dài cho đến năm 2009, khi Bộ Giáo dục bắt đầu mở rộng đào tạo sau đại học chuyên nghiệp sang những chương trình chính quy. Tỷ lệ người tham gia vào con đường chuyên nghiệp đã tăng từ 22,17% trong năm 2010 lên 55,69% vào năm 2020 (từ 24,83% lên 60,83% trong các chương trình thạc sĩ và từ 2,36% lên 11,82% trong các chương trình tiến sĩ).
Trong quá trình mở rộng, các ngành học phát triển với mức độ khác nhau. Xu hướng chung cho thấy tỷ trọng của các ngành khoa học xã hội tăng nhiều nhất, y học và nông nghiệp cũng tăng, trong khi tỷ trọng của các ngành kỹ thuật, khoa học tự nhiên và nhân văn và nghệ thuật giảm xuống. Ở cấp độ thạc sĩ, các ngành kỹ thuật vẫn liên tục thu hút số lượng người tham gia lớn nhất, tuy nhiên, sụt giảm về tỷ lệ, từ 42,95% năm 2000 xuống 27,34% năm 2010, sau đó tăng lên 34,92% vào năm 2020. Xu hướng tương tự xảy ra với các ngành ứng dụng, bao gồm khoa học xã hội, y học và nông nghiệp. Tỷ trọng của khoa học tự nhiên liên tục giảm, từ 12,51% năm 2000 xuống 6,83% năm 2020.
Ở cấp độ tiến sĩ, các ngành kỹ thuật cũng thu hút nhiều người theo học nhất, mặc dù cũng có xu hướng giảm và tăng sau đó, và đạt 41,27% vào năm 2020. Ngành học thu hút số lượng tham gia lớn thứ hai là khoa học tự nhiên, với tỷ lệ tương đối ổn định, từ 19,21% năm 2000 giảm xuống 18,54% năm 2020, tiếp đến là y học (15,47%) và khoa học xã hội (14,67%), trong khi các ngành nhân văn và nghệ thuật giảm liên tục từ 7,88% năm 2000 xuống 5,74% vào năm 2020.
Phụ nữ đang bắt kịp nam giới
Từ năm 2000 đến năm 2020, tỷ lệ nữ tham gia vào giáo dục sau đại học đã tăng từ 34,3% lên 52,5%. Tỷ lệ phần trăm nữ giới ở cấp độ thạc sĩ đã tăng từ 36,3% lên 53,5%; và ở cấp độ tiến sĩ là từ 26,6% lên 42,7%. Điều đáng chú ý là, nữ giới đã bắt kịp và hiện đã vượt qua nam giới về số lượng trong giáo dục sau đại học nói chung, mặc dù trong các chương trình tiến sĩ, số lượng nam giới vẫn lớn hơn. Thành phần giới tính trong các ngành khác nhau ít được biết đến do thiếu dữ liệu công khai.
Từ năm 2000 đến năm 2020, tỷ lệ nữ tham gia vào giáo dục sau đại học đã tăng từ 34,3% lên 52,5%.
Động lực để mở rộng
Với tổng số hơn một triệu người theo học, quy mô đào tạo sau đại học của Trung Quốc hiện nay là rất đáng kể. Tuy nhiên, quy mô đó vẫn chưa đủ đáp ứng nhu cầu trong nước. Chênh lệch cung – cầu của giáo dục sau đại học có thể được minh họa bằng tỷ lệ trúng tuyển trên tổng số dự tuyển, tỷ lệ này là 1:3,4 vào năm 2021 và nhiều khả năng sẽ cao hơn vào năm 2022, do đã có thêm 800 ngàn ứng viên tham gia kỳ thi tuyển sinh gần đây. Có thể dự đoán rằng nhu cầu lớn sẽ tiếp tục thúc đẩy mở rộng hơn nữa, vì một số lý do:
Thứ nhất, sự phát triển của giáo dục sau đại học của Trung Quốc không theo kịp với sự mở rộng của giáo dục đại học. Trong giai đoạn 2000 – 2020, tỷ lệ trung bình giữa số người trúng tuyển vào giáo dục sau đại học và số người nhận bằng cử nhân là 1:4,4.
Thứ hai, mặc dù giáo dục sau đại học đã tăng gần gấp 10 lần kể từ năm 2000, trong một ngàn dân chỉ có 2,2 người được đào tạo sau đại học vào năm 2020. Trung Quốc bị tụt hậu đáng kể so với Hoa Kỳ và hầu hết các nước châu Âu, là những quốc gia có lần lượt 9 đến 14 người có trình độ sau đại học trên một ngàn dân.
Thứ ba, thị trường lao động Trung Quốc đang thiếu lực lượng lao động có kỹ năng trên đại học. Thống kê từ Hội đồng Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ và Quỹ Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ cho thấy tỷ trọng giá trị gia tăng toàn cầu của những ngành công nghiệp R&D chuyên sâu cao và trung bình cao của Trung Quốc đã tăng từ 13% năm 2003 lên 47% năm 2018, trong khi sản lượng của những ngành công nghiệp tri thức và những ngành công nghiệp sử dụng nhiều công nghệ đạt khoảng 2100 tỷ đô la Mỹ vào năm 2019. Tuy nhiên, lực lượng lao động R&D làm việc toàn thời gian chiếm chưa đến 0,7% tổng số lao động chính thức vào năm 2020. Trong năm 2019, các nhà nghiên cứu chiếm khoảng 43,9% lực lượng lao động R&D làm việc toàn thời gian, và chưa đến 35% lực lượng lao động R&D làm việc toàn thời gian có bằng cấp sau đại học. Điều này cho thấy nhu cầu bức thiết tăng lực lượng lao động R&D của Trung Quốc, mà một giải pháp cho điều đó là phát triển hơn nữa giáo dục sau đại học.
Tiềm năng phát triển trong tương lai
Trung Quốc có tiềm lực tài chính đủ mạnh để tăng cường giáo dục sau đại học. GDP của quốc gia này đã tăng 10,1 lần trong hai thập kỷ qua và tốc độ tăng trưởng vượt hơn 8,1% vào năm 2021, bất chấp đại dịch. Trong khi đó, tổng chi cho R&D của Trung Quốc tăng gấp 26 lần trong giai đoạn 2000-2020, từ 89,6 tỷ thành 2439 tỷ; chi cho nghiên cứu cơ bản tăng gấp 30 lần. Cả hai tỷ lệ tăng trưởng nói trên đều cao hơn tỷ lệ tăng trưởng số lượng tuyển sinh vào giáo dục sau đại học.
Trung Quốc thừa nhận vai trò chiến lược của nhân tài trong việc dẫn dắt sự phát triển quốc gia. Điều này gần đây đã được lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc nhấn mạnh khi tuyên bố thực hiện chiến lược phát triển lực lượng lao động có chất lượng để giúp đạt được mục tiêu của Trung Quốc là trở thành một trung tâm lớn của thế giới về nhân tài và đổi mới. Do đó, có thể trông đợi rằng giáo dục sau đại học ở Trung Quốc sẽ mở rộng hơn nữa, như một giải pháp quan trọng để nâng cấp lực lượng lao động của quốc gia.
