Hợp tác khoa học Trung – Mỹ có phải chỉ là chuyện của quá khứ?

David S. Zweig là Giáo sư danh dự tại Đại học Khoa học và Công nghệ Hồng Kông. Email: sozweig@ust.hk.

Tóm tắt: Một khía cạnh đáng khen ngợi của mối quan hệ hợp tác Trung – Mỹ sau năm 1978 là hợp tác nghiên cứu. Nhưng những nỗ lực thái quá của Trung Quốc nhằm thu lợi từ cộng đồng khoa học Hoa kiều, sự dịch chuyển công nghệ tiên tiến từ Hoa Kỳ sang Trung Quốc, và nhận thức mới của Hoa Kỳ về Trung Quốc như một “đối thủ cạnh tranh chiến lược” đã khiến chính quyền Trump triển khai “Sáng kiến Trung Quốc” nhằm an ninh hóa hợp tác khoa học. Bất chấp sự phản đối mạnh mẽ từ các trường đại học và các nhóm bảo vệ quyền của người Mỹ gốc Á, hoạt động hợp tác khoa học vẫn gặp nhiều rủi ro.

Trao đổi khoa học góp phần nâng tầm nhân loại. Vì vậy, một nội dung chính của mối quan hệ Trung – Mỹ sau năm 1978 là trao đổi học thuật và cuối cùng đã dẫn đến hợp tác nghiên cứu. Những nỗ lực như vậy được đánh giá cao. Vào năm 2014, chủ tịch Viện Y tế Quốc gia (National Institutes of Health – NIH) Francis Collins phát biểu tại Đại học Phúc Đán ở Thượng Hải rằng “Khoa học không có biên giới bởi vì tri thức thuộc về cả nhân loại”, trong khi một đánh giá nội bộ của NIH cũng cho thấy từ năm 2010 đến 2019, những dự án chung do NIH và Trung Quốc tài trợ đã thực hiện được một số nghiên cứu về căn bệnh ung thư có tác động lớn.

Đã sai điều gì?

Những thay đổi trong chính sách của Trung Quốc, mức độ cao của sự dịch chuyển công nghệ tiên tiến từ Hoa Kỳ sang Trung Quốc, và những thay đổi trong nhận thức của Hoa Kỳ về an ninh quốc gia đã kết thúc mối quan hệ ấm áp này.

Để khai thác lợi ích từ nguồn tài năng người Hoa ở nước ngoài, các tổ chức của Trung Quốc, như Bộ Giáo dục (MOE), Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, đã thiết lập những chương trình nhằm lôi kéo về nước những tài năng và trí tuệ nổi bật nhất. Tuy nhiên, vì những nhà khoa học giỏi nhất của cộng đồng Hoa kiều vẫn chọn ở lại nước ngoài, cả MOE và Viện Hàn lâm Khoa học đều đề nghị họ liên kết bán thời gian với các trường đại học Trung Quốc, do đó những nhà nghiên cứu này vẫn duy trì công việc của họ ở nước ngoài và tiếp tục những nghiên cứu của họ trong các phòng thí nghiệm phương Tây. Họ cũng đào tạo được hàng chục nghìn nghiên cứu sinh tiến sĩ và nghiên cứu viên sau tiến sĩ của Đại lục, những người cùng làm việc với họ trong phòng thí nghiệm.

Nhưng vào khoảng năm 2013, Trung Quốc ngừng công bố tên của những học giả cộng tác bán thời gian trong Kế hoạch Ngàn Nhân tài (TTP), đưa chương trình này đi vào hoạt động ngầm. Vào năm 2018, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của chính quyền Trump đã coi Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh chiến lược” đang tìm kiếm sự ưu việt trên toàn cầu. Cơ quan an ninh quốc gia Hoa Kỳ đã siết chặt an ninh đối với hợp tác khoa học do lo ngại trước nguy cơ chủ nghĩa khủng bố thế chỗ cho cạnh tranh chiến lược giữa các quốc gia.

Đích ngắm của Sáng kiến ​​Trung Quốc là các mối quan hệ hợp tác

“Sáng kiến ​​Trung Quốc” do Bộ Tư pháp (DOJ) đưa ra. Dưới sự chỉ đạo của Cục Điều tra Liên bang (FBI), cơ quan này cáo buộc các sinh viên, giáo sư, nhà nghiên cứu khoa học và nhân viên thương mại người Trung Quốc là “những người thu thập thông tin tình báo phi truyền thống”. Cơ quan này cũng cố gắng ngăn cản sự hợp tác khoa học và học thuật giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Do đó, tuyên bố của Collins được trích dẫn ở trên, như lời dự báo về quan hệ hợp tác Trung – Mỹ, đã bị xóa khỏi trang web của NIH.

Động lực cho chiến dịch này đến từ cấp cao nhất, với việc Tổng thống Trump cáo buộc hầu hết sinh viên Trung Quốc là gián điệp. Giám đốc FBI kêu gọi “toàn xã hội” phòng vệ trước cái mà ông ta tuyên bố là một cuộc tấn công “toàn xã hội” chưa từng có của Trung Quốc. Tại một phiên điều trần quốc hội vào tháng 4 năm 2018 mang tên “Học giả hay gián điệp”, Hạ nghị sĩ Lamar Smith đã cáo buộc Trung Quốc cài cắm “điệp viên nằm vùng” trong các trường đại học Hoa Kỳ để đánh cắp những đột phá khoa học.

FBI gây áp lực buộc 94 văn phòng hiện trường của họ tìm kiếm các gián điệp.

NIH và FBI vào cuộc

Chính quyền Trump đã áp dụng hai chiến lược. Các cơ quan tài trợ, đặc biệt là NIH, gây áp lực buộc các trường đại học và phòng thí nghiệm điều tra những nhà nghiên cứu được sinh ra ở Trung Quốc, hoặc là phải đối mặt với việc cắt giảm tài trợ. Một số trường đình chỉ giảng viên người Trung Quốc mà không có lý do chính đáng nhằm đảm bảo tiếp tục được nhận tài trợ từ NIH. Tiến sĩ Epling-Burnette, người bị sa thải khỏi một viện nghiên cứu lớn vì không tiết lộ mối quan hệ của mình với Trung Quốc, cho biết “những cơ sở này sống trong nỗi sợ hãi tuyệt đối trước NIH và lo ngại rằng, nếu họ không hành động vượt mức, NIH có thể cắt tài trợ”. Các cơ quan cấp phép của Hoa Kỳ cũng siết chặt thêm những yêu cầu báo cáo đối với những tổ chức và cá nhân nhận tài trợ và có mối liên kết với nước ngoài. Tuy nhiên, vị quan chức của NIH dẫn đầu những cuộc điều tra này đã thừa nhận với tác giả rằng tổng số tiền tài trợ có khả năng bị các nhà nghiên cứu có liên quan đến Trung Quốc lạm dụng chỉ tương đương khoảng 0,5% tổng mọi khoản tài trợ mà NIH dành cho các tổ chức và cá nhân bên ngoài NIH.

Thứ hai, FBI gây áp lực buộc 94 văn phòng hiện trường của họ tìm kiếm các gián điệp. Trong một cuộc phỏng vấn, Trợ lý Bộ trưởng Tư pháp John Demers thừa nhận rằng DOJ muốn mỗi khu vực phát hiện được một hoặc hai gián điệp mỗi năm. Có thể dễ dàng đoán trước được kết quả. Trong trường hợp của Tiến sĩ Anming Hu, người bị sa thải khỏi Đại học Tennessee ở Knoxville, chính nhân viên FBI – người bắt giữ Hu vì tội làm gián điệp – đã thừa nhận rằng anh ta không có bằng chứng để chứng minh cho tuyên bố của mình.

Họ làm gì khi không có bằng chứng?

FBI và DOJ, do thiếu bằng chứng, thường tìm cách buộc tội và trừng phạt vì những tội nhẹ hơn, chẳng hạn như tội nói dối FBI về việc tham gia vào những chương trình của chính phủ Trung Quốc (nói dối FBI là một tội hình sự), hoặc không tiết lộ đầy đủ cho các cơ quan cấp phép của Hoa Kỳ về mối liên hệ của mình với các tổ chức của Trung Quốc (có thể dẫn đến tội gian lận điện tử). Khi không có trợ cấp hoặc thậm chí không có việc làm, nhiều sinh viên tốt nghiệp đã trở về Trung Quốc, nơi họ thường được chào đón nồng nhiệt. Tuy nhiên, theo Rory Truex của Đại học Princeton, với khoảng 107 ngàn công dân Trung Quốc nghiên cứu về các ngành học STEM ở trình độ sau đại học, tỷ lệ phạm tội tính đến năm 2020 ở nhóm dân số này là dưới 1/10 ngàn. Vào tháng 7 năm 2021, DOJ đã bãi bỏ các cáo buộc đối với 9 viện sĩ sinh ra ở đại lục, những người bị cáo buộc tham gia vào những hoạt động bất chính.

Bảo vệ môi trường khoa học mở của Hoa Kỳ

Các hiệu trưởng của Đại học Stanford, Đại học California–Berkeley, Đại học California–Davis, Đại học California–Los Angeles, Đại học Michigan, Đại học Rice và những trường khác đã chống lại những áp lực này. Chủ tịch của MIT đồng ý trả tiền bảo vệ pháp lý cho một nhà nghiên cứu cấp cao là Chen Gang. Trường Đại học Y khoa Baylor đã không sa thải những nhân viên không thực hiện yêu cầu của NIH về việc cung cấp thông tin, vì những hành động này “không nghiêm trọng đến mức phải xử lý kỷ luật”. Nhiều người cáo buộc DOJ lập hồ sơ phạm tội trên căn cứ chủng tộc, với lập luận rằng một số chủng tộc nhất định có xu hướng phạm một số tội nhất định cao hơn chủng tộc khác – dẫn đến tỷ lệ kết án dường như xác nhận những định kiến ​​đó. NIH và Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Quốc gia (NASA) bị cáo buộc “di chuyển các mục tiêu”, để những hành động trước đây được coi là tích cực bỗng trở thành hoạt động âm mưu. Trong bài công bố trên tạp chí Science vào tháng 7 năm 2019, Tiến sĩ Elias Zerhouni, cựu giám đốc NIH, viết “Trong nhiều năm, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã khuyến khích trao đổi và hợp tác khoa học với Trung Quốc, bao gồm cả sự hỗ trợ ngầm đối với Chương trình Ngàn tài năng của Trung Quốc”. Ngoài ra, ông lập luận, khi những nhà khoa học được chính phủ liên bang tài trợ đảm nhiệm các vị trí ở Trung Quốc, Hoa Kỳ đã không phản đối. Cuối cùng, “những quy tắc” mới đây được đặt ra và thực thi là vi phạm nghiêm trọng những quy định về đạo đức và sở hữu trí tuệ của Hoa Kỳ, đã không được nhiều tổ chức Hoa Kỳ thực hiện nghiêm túc. Ngay cả Văn phòng Giải trình của Chính phủ Hoa Kỳ, vào tháng 12 năm 2020, cũng thừa nhận rằng các mục tiêu đã được bãi bỏ.

Rủi ro của Sáng kiến ​​Trung Quốc

Sáng kiến ​​Trung Quốc gây ra vô số rủi ro. Ở cấp độ cá nhân, cuộc sống trở nên vô cùng khó chịu đối với những nhà khoa học và học giả sinh ra ở đại lục đang làm việc tại Hoa Kỳ, nhiều người trong số họ yêu mến nền văn hóa khoa học cởi mở của Hoa Kỳ. Thứ hai, năng suất của họ đã đưa Trung Quốc trở thành đối tác cộng tác lớn nhất của Mỹ kể từ năm 2011. Trên thực tế, xét theo số lượng những bài báo được đăng trên những tạp chí có tác động lớn, chẳng hạn như Nature hoặc Science, Trung Quốc có tỷ lệ chia sẻ nghiên cứu của họ với Hoa Kỳ cao hơn nhiều so với chiều ngược lại. Tuy nhiên, tỷ lệ chia sẻ nghiên cứu công nghệ cao của Hoa Kỳ với Trung Quốc đã liên tục tăng trong 10 năm qua, trong khi tỷ lệ công nghệ cao được tạo ra ở Trung Quốc được chia sẻ với Hoa Kỳ tương đối ổn định. Thứ ba, hầu hết những người được trao giải thưởng TTP (The Technology Partnership) ở Hoa Kỳ đều nằm trong số những nhà nghiên cứu người Trung Quốc giỏi nhất trên thế giới, vì vậy Hoa Kỳ sẽ mất một phần đáng kể sức mạnh nghiên cứu của mình nếu nhóm này bị đuổi về Trung Quốc. Thứ tư, nếu sinh viên STEM, do bị ngăn đến Hoa Kỳ, sẽ chuyển hướng sang châu Âu hoặc Nhật Bản, nhiều khả năng họ sẽ trở về Trung Quốc hơn là làm việc cho các công ty hoặc trường đại học Hoa Kỳ. Thứ năm, quan hệ hợp tác nghiên cứu với một quốc gia hàng đầu về nghiên cứu ung thư – có thể chấm dứt. Cuối cùng, theo ProPublica, những cuộc điều tra và truy tố các nhà khoa học vì không tiết lộ thông tin – một hành vi trước đây thường được coi là vi phạm nhỏ và chỉ bị xử lý trong các trường đại học – lại “giúp Trung Quốc đạt được mục tiêu lâu dài là thu hút những tài năng khoa học hàng đầu”.

Những gì nên làm? Viết trên tờ Bulletin of the Atomic Sciences năm 2014 về chủ đề mở cửa khoa học khác với an ninh quốc gia, Krige trích dẫn một báo cáo của chính phủ Hoa Kỳ năm 2007 lập luận rằng chính sách an ninh hợp lý duy nhất là chỉ bảo vệ những tri ​​thức nhạy cảm nhất bằng cách xây những bức tường cao xung quanh những mảnh vườn nhỏ, hơn là cố gắng xây những bức tường danh nghĩa quanh những cánh đồng rộng lớn. Do đó, Bộ Năng lượng, cơ quan chịu trách nhiệm về chương trình hạt nhân của Hoa Kỳ, đã không khôn ngoan khi để 9 nhà nghiên cứu Trung Quốc sinh ra ở đại lục, là người của bộ này – tham gia TTP. Mặt khác, chính quyền Biden cần thận trọng trong việc theo đuổi những chính sách làm suy yếu sự hợp tác toàn cầu và sự tiến bộ của nghiên cứu khoa học và học thuật.