Jamil Salmi là Chuyên gia giáo dục đại học toàn cầu, Giáo sư danh dự về Chính sách giáo dục đại học của Trường Đại học Diego Portales ở Chile, và là Nghiên cứu viên tại Trung tâm Giáo dục Quốc , Boston College, Hoa Kỳ. Bài viết này được chuyển thể từ cuốn sách năm 2017 của ông: Giáo dục đại học bắt buộc: Kiến thức, kỹ năng và giá trị để phát triển – Boston và Rotterdam, Nhà xuất bản Sense. jsalmi@tertiaryeducation.org – www.tertiaryeducation.org
Tóm tắt
Trong một thời gian dài cộng đồng quốc tế đã đánh giá thấp những đóng góp quan trọng của giáo dục đại học cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, cam kết toàn cầu đối với các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) đã khiến chúng ta không thể bỏ qua thực tế rằng những hệ thống giáo dục đại học mạnh và năng động là điều kiện cần thiết để 17 Mục tiêu có thể đạt được những tiến bộ đáng kể.
Công ty hàng không Brazil, Embraer, là công ty hàng đầu thế giới trong việc sản xuất máy bay phản lực cho khu vực. Thành công của công ty biểu tượng của đất nước này bắt đầu từ việc thành lập Trường Kỹ thuật Hàng không Quốc gia (ITA) trong những năm 1950. Được thành lập trong sự hợp tác chặt chẽ với MIT (chủ tịch đầu tiên của ITA là một giáo sư MIT), ITA đã đào tạo các nhà khoa học, kỹ sư và kỹ thuật viên – những người đã giúp xây dựng Embraer thành một công ty toàn cầu hàng đầu.
Typhidot là một kỹ thuật chẩn đoán bệnh thương hàn mang tính cách mạng. Được phát minh bởi các nhà nghiên cứu từ Đại học Khoa học Malaysia ở Penang (USM), Typhidot được ghi nhận đã cứu sống hàng ngàn người. So với các phương pháp phát hiện bệnh truyền thống, Typhidot nhanh hơn, đáng tin cậy hơn, rẻ hơn và không cần bảo quản lạnh. Trung tâm đổi mới y tế của USM, nơi khởi nguồn của Typhidot, chuyên nghiên cứu tìm cách sáng tạo để chẩn đoán các bệnh truyền nhiễm một cách hợp lý.
Cho đến đầu thập kỷ này, hầu hết các giáo viên thực hành trong các trường tiểu học ở Palestine đều không được đào tạo tốt và không có bằng đại học. Sau khi quy định mới đòi hỏi tất cả giáo viên phải có cả bằng đại học lẫn chứng chỉ giảng dạy chuyên nghiệp, ba trường đại học ở Tây Ngạn đã hợp tác với một cơ sở đào tạo giáo viên danh tiếng của Anh, nhằm đại tu triệt để chương trình đào tạo giáo viên của họ, đưa vào cách tiếp cận dựa trên năng lực và yếu tố trải nghiệm trường học.
Thừa nhận giá trị của giáo dục đại học
Trên đây chỉ là ba ví dụ minh họa cho sự đóng góp độc đáo và quan trọng của giáo dục đại học cho sự phát triển kinh tế và xã hội. Nhận thức được vai trò quan trọng này, báo cáo đột phá năm 2000 mang tên Giáo dục đại học ở các nước đang phát triển: Lâm nguy và Hứa hẹn (Peril và Promise) kêu gọi tăng cường đầu tư vào giáo dục đại học và nghiên cứu để trang bị cho các nước đang phát triển những kiến thức và nhân lực có chất lượng cần thiết để chống đói nghèo và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Báo cáo do một nhóm chuyên gia độc lập nổi tiếng thực hiện với sự hỗ trợ tài chính từ UNESCO và Ngân hàng Thế giới – đã có tác động quan trọng ở ba cấp độ. Thứ nhất, nó giúp định hướng lại các chính sách tài trợ để tập trung nhiều hơn vào giáo dục đại học ở các nước đối tác. Thứ hai, nó phát động các sáng kiến cải cách ở một số nước đang phát triển. Thứ ba, nó mở đường cho việc tăng cường hợp tác Nam-Nam (giữa các nước đang phát triển ở Nam bán cầu, ngày nay được biết đến như là Hợp tác Châu Phi – Nam Mỹ).
Mười lăm năm sau, vào tháng 9 năm 2015, Liên Hợp Quốc cho ra mắt các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDGs), tạo động lực mới cho việc công nhận vai trò quan trọng của giáo dục đại học. Trong thực tế, khó mà tin rằng một quốc gia thu nhập thấp có thể đạt được SDGs mà không cần một hệ thống giáo dục đại học mạnh và năng động. Ngoài việc giáo dục đại học có thể góp phần quan trọng cho các mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững (SDG 8) và giảm nghèo (SDG 1), tất cả 15 mục tiêu khác, từ phát triển nông nghiệp bền vững và xây dựng cơ sở hạ tầng đàn hồi tới giảm thiểu những tác động tàn phá của biến đổi khí hậu và giữ gìn môi trường, cũng không thể đạt được nếu không có sự tham gia của các nhà khoa học và các chuyên gia được đào tạo tốt và việc ứng dụng những nghiên cứu hàng đầu trong việc tìm kiếm những giải pháp phù hợp với những thách thức lớn mà hành tinh của chúng ta phải đối mặt.
Liên quan đến mục tiêu giảm bất bình đẳng (SDG 10), giáo dục đại học đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự thay đổi vị thế xã hội thông qua các cơ hội giáo dục bình đẳng cho mọi nhóm đối tượng. |
Không đạt được các SDGs nếu không có giáo dục đại học
Liên quan đến mục tiêu giảm bất bình đẳng (SDG 10), giáo dục đại học đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự thay đổi vị thế xã hội thông qua các cơ hội giáo dục bình đẳng cho mọi nhóm đối tượng, đặc biệt là những học sinh bị thiệt thòi từ các nhóm thu nhập thấp, dân tộc thiểu số và những người có nhu cầu đặc biệt. Để đạt được SDGs cũng cần những thể chế mạnh về thiết kế và thực hiện chính sách và những công dân có nhận thức tốt, quan tâm đến việc hòa nhập kinh tế xã hội và bền vững môi trường.
Sự đóng góp của giáo dục đại học là rất quan trọng, nhất là để đạt được tiến bộ thực sự trong giáo dục cơ sở và trung học. Một nghiên cứu gần đây cho thấy hơn một phần tư giáo viên của tất cả các trường tiểu học ở 31 quốc gia không đạt chuẩn giáo dục tối thiểu. Giáo dục đại học hỗ trợ phần còn lại của hệ thống giáo dục thông qua việc đào tạo giáo viên và hiệu trưởng, thông qua sự tham gia của các chuyên gia có trình độ cao vào việc phát triển chương trình và nghiên cứu giáo dục, và thiết kế các bài kiểm tra phù hợp để đánh giá kết quả học tập của học sinh. Mối liên hệ cộng sinh giữa giáo dục đại học và các cấp học thấp hơn có tiềm năng kích thích vòng tròn đạo đức về xây dựng năng lực, theo nghĩa là chất lượng giáo dục đại học có ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục tiểu học và trung học và ngược lại, cũng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi chất lượng học sinh tốt nghiệp trung học.
Một lập luận tương tự áp dụng cho vai trò nền tảng của giáo dục và nghiên cứu y tế nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững về sức khỏe (SDG 3). Các trường đại học đào tạo các bác sĩ, y tá, kỹ thuật viên, nhà dịch tễ học, chuyên gia y tế cộng đồng và các nhà quản lý bệnh viện – là những trụ cột quan trọng nhất của bất kỳ hệ thống y tế nào. Các trường đại học và các học viện y khoa tiến hành những nghiên cứu cơ bản và đặc biệt là nghiên cứu ứng dụng để có sự tiến bộ trong cuộc chiến chống lại bệnh tật và các mối nguy hiểm cho sức khỏe.
Các nước đang phát triển cần phải xây dựng năng lực đối phó với những hiểm họa sức khỏe nghiêm trọng không chỉ vì nhu cầu an toàn trong nước mà còn góp phần giải quyết một cách hiệu quả các cuộc khủng hoảng sức khỏe toàn cầu thông qua hợp tác nghiên cứu. Thực tế là, các nghiên cứu đã dịch chuyển từ việc tìm kiếm kiến thức hàn lâm sang tập trung giải quyết vấn đề, với các nhóm các nhà khoa học từ nhiều lĩnh vực khác nhau cùng hợp tác giải quyết những vấn đề phức tạp, thường tương ứng với những thách thức chung ảnh hưởng đến toàn nhân loại, bất kể những khác biệt trong quan điểm chính trị. Sự chuyển hướng này được minh họa rõ nhất trong các sự việc liên quan đến sức khỏe toàn cầu xuất hiện trong những năm gần đây, từ SARS đến MERS, và dịch bệnh Ebola mới nhất ở Tây Phi.