Wei Jing là Ứng cử viên Tiến sĩ tại Viện Giáo dục, Đại học Thiên Tân, Trung Quốc. E-mail: weijing522@126.com. Anthony Welch là Giáo sư ngành Giáo dục, Viện Giáo dục và Công tác Xã hội, Đại học Sydney, Úc. E-mail: anthony.welch@sydney.edu.au.
Việc Trung quốc đặt mục tiêu ưu tiên trở thành một quốc gia đổi mới không phải là điều mới, đó là kết quả của chiến lược dài hạn làm cho Trung Quốc mạnh mẽ hơn thông qua khoa học và công nghệ (kejiao xingguo), bao gồm cả nhân lực khoa học (keji rencai). Thông qua các chính sách này, các tổ chức giáo dục đại học của Trung Quốc (HEI) được giao phó sứ mệnh và ý nghĩa mới. Điều này đặc biệt áp dụng cho một loại các HEI mới, là các trường Đại học Công nghệ Ứng dụng (yingyong jishu daxue), hay còn gọi là UAT (University of Applied Technology) – được thiết kế để đóng vai trò quan trọng trong hệ thống giáo dục đại học của Trung Quốc, đặc biệt bằng cách thúc đẩy hợp tác với ngành công nghiệp. Trong khi các nước khác cố gắng giảm thiểu tình trạng trôi dạt học thuật trong các trường đại học công nghệ, Trung quốc đề xuất chuyển đổi hơn 600 HEI thành UAT được thiết kế để hoàn thành một nhiệm vụ khác biệt, đây là một cuộc cải cách lớn. Khác với các trường đại học nghiên cứu, UAT dự kiến sẽ cống hiến cho sự phát triển kinh tế khu vực bằng cách hợp tác với các doanh nghiệp địa phương vừa và nhỏ trong các dự án ứng dụng đổi mới. Thông qua định hướng thực tế này, các UAT được mong đợi sẽ đào luyện nhân sự cấp cao có kỹ năng trong đổi mới ứng dụng, cũng như đa dạng hóa toàn bộ hệ thống giáo dục đại học của Trung Quốc. Tuy nhiên, đạt được những mục tiêu này hóa ra khó khăn hơn nhiều so với kế hoạch. Các nghiên cứu điển hình về chính sách và thực hiện tại bốn UAT và các UAT có quy mô khác nhau và ở các khu vực khác nhau của Trung Quốc cho thấy mục tiêu hợp tác với ngành công nghiệp địa phương để thúc đẩy sự đổi mới đã bị xói mòn bởi sự lệch hướng học thuật đáng kể, ý đồ ban đầu bị sai lệch.
Tầm quan trọng của đổi mới trong giáo dục đại học Trung Quốc
Các HEI ở Trung Quốc từ lâu đã là những động cơ quan trọng trong nghiên cứu và đổi mới. Thủ tướng Quốc vụ viện Lý Khắc Cường nhấn mạnh mức độ gắn kết cao giữa hệ thống đổi mới quốc gia và các hoạt động nghiên cứu khoa học của HEI, như một lực lượng để biến Trung Quốc thành một quốc gia đổi mới. Nhiều chính sách ưu đãi đã được giành cho các doanh nghiệp, các HEI và các tổ chức nghiên cứu có sáng tạo trong mọi lĩnh vực. Nhưng hệ thống giáo dục đại học được phân tầng cao của Trung Quốc đảm bảo rằng các trường đại học và cao đẳng có hồ sơ đổi mới mạnh hơn sẽ được cấp nhiều ngân sách hơn cũng như các nguồn lực khác. Năng suất nghiên cứu cũng là một yếu tố chính để xếp hạng trường đại học; trong hệ thống học thuật cạnh tranh mạnh mẽ của Trung quốc, điều này mang lại lợi thế cho các trường đại học hàng đầu, thu hút các nhà nghiên cứu giỏi nhất và sinh viên tốt nghiệp từ các trường này được người sử dụng lao động săn đón nhiều hơn. Trong khi đổi mới là ưu tiên quốc gia và của khu vực, trong thực tế, các HEI Trung Quốc đều đang chạy trong cùng một cuộc đua, dù các UAT có nhiệm vụ riêng là thúc đẩy đổi mới khu vực thông qua hợp tác với ngành công nghiệp.
Lý do thành lập UAT ở Trung Quốc
Hơn 600 trường đại học và cao đẳng (chủ yếu là các trường đại học hạng 2 và các trường cao đẳng tư thục) thành lập từ sau năm 1999 được đề xuất chuyển đổi thành UAT theo kế hoạch. Giờ đây họ tạo thành một tỷ lệ đáng kể trong số 2600 hoặc khoảng đó trường đại học hoặc cao đẳng cấp bằng cử nhân. Như đã đề cập ở trên, UAT là một biện pháp quan trọng để đa dạng hóa hệ thống giáo dục đại học của Trung Quốc. Đặc biệt, họ được trả phí cho việc cung cấp các tài năng kỹ thuật và ứng dụng tiên tiến để đáp ứng nhu cầu các ngành công nghiệp luôn thay đổi. Họ cũng được kỳ vọng giúp giảm bớt tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng mang tính cấu trúc trong một số ngành công nghiệp chủ chốt, cũng như tăng cường sự phân chia nhị phân trong khu vực đại học – mà theo thời gian đã trở nên mờ nhạt. So với các trường đại học nghiên cứu lớn thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản và tiên tiến, UAT sẽ góp phần vào sự đổi mới không phải bằng cách trực tiếp khám phá kiến thức mới, mà bằng cách ứng dụng kiến thức có sẵn vào thực tế và tinh chỉnh các quy trình hiện hành bằng cách cộng tác với ngành công nghiệp, tăng cường năng lực của nhân lực kỹ thuật cấp cao của UAT. Tuy nhiên, các nghiên cứu chi tiết về UAT bộc lộ sự lệch hướng học thuật nghiêm trọng, làm chuyển hướng các trường này khỏi sứ mệnh định hướng thị trường ban đầu.
Hơn 600 trường đại học và cao đẳng (chủ yếu là các trường đại học hạng 2 và các trường cao đẳng tư thục) thành lập từ sau năm 1999 được đề xuất chuyển đổi thành UAT theo kế hoạch. |
Lệch hướng học thuật trong UAT
Lệch hướng học thuật là xu hướng các trường đại học mới và chuyên ngành thúc đẩy hoạt động nghiên cứu của họ theo cách những trường đại học nghiên cứu lớn vẫn đang thực hiện. Là một hình thức đồng dạng về mặt thể chế, quá trình này thường có nghĩa là kiến thức ứng dụng lẽ ra là hữu ích trực tiếp lại dần dần mất đi mối liên hệ gần gũi với thực tế. Nghiên cứu chi tiết một số UAT bộc lộ sự lệch hướng học thuật này. Trong khi kế hoạch ban đầu cho UAT là hiện thực sự đổi mới thông qua hợp tác với các doanh nghiệp địa phương và các ngành công nghiệp, trong thực tế, điều này không diễn ra. Thay vào đó, các giảng viên của UAT dành phần lớn năng lực của họ cho việc xuất bản nghiên cứu và tìm cách tham gia vào các dự án khoa học lớn cấp quốc gia – vì những thành tích này mở đường cho việc thăng tiến. Lệch hướng học thuật còn diễn ra trong các quy trình thể chế liên quan đến biện pháp thực hiện, chẳng hạn như biện pháp kích thích xuất bản và tham gia vào các dự án nghiên cứu quốc gia lớn thông qua quan hệ đối tác với các trường đại học nghiên cứu trong khu vực trung và tây của Trung Quốc; đặt ra giải thưởng tài chính cực kỳ cao cho các học giả khi có công bố trong các tạp chí cao cấp; hoặc cho các dự án cấp quốc gia thu hút được – trong khi các dự án hợp tác cấp trường-ngành công nghiệp có mức khuyến khích thấp hơn nhiều. Cùng với thực tế là các UAT kém hấp dẫn ngành công nghiệp cộng tác hơn (khi cần tư vấn hoặc hỗ trợ kỹ thuật các ngành công nghiệp thường có xu hướng tìm đến các trường đại học nghiên cứu lâu đời), các quy trình kém hiệu quả này dẫn đến tình trạng giảng viên UAT hướng những nỗ lực của họ khỏi nhiệm vụ chính. Tuy nhiên, khi trả lời phỏng vấn, hơn 90% người tham gia nghĩ rằng những công bố của họ ít có giá trị và thừa nhận rằng hầu hết các công bố của họ là kết quả từ việc sao chép và kết hợp ý tưởng từ các công trình người khác xuất bản.
Kết luận
Quá trình lệch hướng học thuật trong UAT làm nổi bật một mâu thuẫn cơ bản giữa chính sách và thực hiện. Thay vì tích cực hợp tác với ngành công nghiệp bằng cách sử dụng chuyên môn kỹ thuật ứng dụng, các UAT thể hiện một quán tính tổ chức mạnh mẽ, chủ yếu là do những định hướng vĩ mô lâu dài vốn vẫn ưu tiên nghiên cứu học thuật. Xếp hạng trường đại học, dù do chính phủ hay các tổ chức phi chính phủ thực hiện, đều đề cao tiêu chí đổi mới khoa học và công nghệ. Hệ thống đánh giá truyền thống vẫn tiếp tục khen thưởng cho các dự án được xuất bản hay mua lại. Trừ khi các nhà hoạch định chính sách thừa nhận và thành công trong việc kiểm soát những khuynh hướng này, sự lệch hướng học thuật sẽ ngăn cản UAT hoàn thành sứ mệnh ban đầu của chúng.