Vai trò của du học trong việc tăng cường chống phân biệt chủng tộc

Motun Bolumole tốt nghiệp thạc sĩ năm 2020 tại Boston College về giáo dục đại học quốc tế. E-mail: bolumole@bc.edu. Nicole Barone là học viên tiến sĩ giáo dục đại học tại Boston College, Hoa Kỳ. E-mail: baronena@bc.edu.

Tóm tắt: Các chuyên gia giáo dục quốc tế kiên trì thuyết giảng về sự cần thiết đa dạng hóa và tạo ra những chương trình du học mang tính công bằng và hòa nhập. Tuy nhiên, những vấn đề về chủng tộc và phân biệt chủng tộc vẫn tiếp tục len lỏi vào trải nghiệm du học của sinh viên da màu. Chúng tôi cho rằng có thể đã đến lúc lĩnh vực du học phải vượt ra ngoài phạm vi những lời hùng biện về sự đa dạng và hòa nhập, và bắt đầu tập hợp lại, dẫn dắt một chương trình nghị sự chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong giáo dục quốc tế.

Các nhà nghiên cứu và chuyên gia trong lĩnh vực du học nước ngoài nên là một trong những tiếng nói dẫn dắt các cuộc thảo luận về phân biệt chủng tộc trong giáo dục đại học, đặc biệt trong lĩnh vực phát triển sinh viên quốc tế. Du học, được vận hành và nghiên cứu bởi các chuyên gia trong lĩnh vực này, từ lâu tự coi mình là nguồn cung cấp năng lực giao thoa văn hóa, hứa hẹn sẽ giúp sinh viên trở nên bao dung, hiểu biết và nhận thức tốt hơn bằng cách cho họ tiếp xúc với thế giới và con người của thế giới. Những kết quả này, về mặt lý thuyết, sẽ dẫn đến sự cam kết chống chủ nghĩa phân biệt, ủng hộ công lý và tôn trọng tất cả mọi người bất kể màu da, tín ngưỡng hay quốc tịch. Tuy nhiên, chính kinh nghiệm của sinh viên da màu Hoa Kỳ du học ở nước ngoài, và thực tế là chỉ gần đây những cuộc thảo luận về sự cần thiết chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trong lĩnh vực này mới nổi lên, cho thấy rằng trong thực tế, việc này tự nó sẽ có những cách đi riêng một khi liên quan đến chủ đề chủng tộc.

Chủng tộc và bình đẳng trong du học

Du học cần tiếp tục giải quyết những vấn đề liên quan đến chủng tộc ở cấp độ sâu hơn, từ việc những đàm luận học thuật thống trị lĩnh vực này suốt nhiều thập kỷ, cho đến cách thức sinh viên da màu tiếp cận và trải nghiệm các chương trình học tập. Việc sinh viên da màu chiếm một tỷ lệ thấp trong du học vẫn luôn là một chủ đề tranh cãi. Tuy nhiên, bất chấp những cam kết công khai về việc gia tăng sự đa dạng chủng tộc trong hoạt động du học, đặc biệt tại những cơ sở đào tạo chủ yếu là người da trắng (Predominantly White Institutions – PWI), các học giả và các nhà thực hành lại nỗ lực làm điều này theo cách truyền thống vốn thường nhấn mạnh quá mức vào những thứ sinh viên da màu còn thiếu trong định hướng tiếp cận học tập ở nước ngoài, thay vì chỉ ra đó là trách nhiệm của hệ thống đã tạo ra và duy trì những rào cản này. Không có gì ngạc nhiên khi những nỗ lực đa dạng hóa các chương trình du học Mỹ đang diễn ra chậm chạp.

Trong bối cảnh Hoa Kỳ, du học thông qua những chương trình do các trường và các tổ chức dịch vụ tư nhân thực hiện là một phần mở rộng của toàn bộ hệ thống giáo dục đại học, trong đó việc không sẵn lòng thừa nhận và giải quyết những vấn đề lâu dài và sâu xa về chủng tộc dẫn đến sự cố tình lãng quên sinh viên da màu trong các trường đại học. Thực tế, trải nghiệm của sinh viên da màu khi đi du học đã thách thức chính khẳng định cho rằng sinh viên trở nên hiểu biết hơn, đồng cảm hơn và ít có khuynh hướng định kiến ​​chủng tộc hơn thông qua chương trình du học. Khi sinh viên da đen du học nước ngoài, họ cho biết một số đáng kể những biểu hiện phân biệt chủng tộc mà họ phải trải qua khi đi xa là từ những người bạn da trắng của họ, hiện đang chiếm 70% tổng số sinh viên Hoa Kỳ du học. Làm thế nào để chúng ta dung hòa điều này với quan điểm rằng sau trải nghiệm du học sinh viên sẽ sẵn sàng và thoải mái hơn khi đụng đến những khác biệt chủng tộc?

Ngôn từ về sự đa dạng

Trong cuốn sách On Being Included: Racism and Diversity in Institutional Life (Con đường hòa nhập: Phân biệt chủng tộc và sự đa dạng trong cuộc sống học đường), Sara Ahmed mô tả những diễn ngôn khác nhau trong đó thuật ngữ “sự đa dạng” được sử dụng, bao gồm vô số cách khai thác ý nghĩa của nó —  trong những tuyên bố về công bằng hòa nhập và trong các tài liệu tiếp thị, đến cách nó được sử dụng để thông báo về những giá trị và ưu tiên của tổ chức. Cách diễn giải thuật ngữ này hàm ý rộng hơn những tuyên bố về tính đa dạng, công bằng và hòa nhập trong một tổ chức—bởi vì nó xuyên suốt các chương trình học thuật và ngoại khóa. Du học thực tế là một lĩnh vực mà những đặc tính của nó đang được khai thác để thay thế cho những hành động thực sự nhằm thúc đẩy công bằng chủng tộc, kinh tế và xã hội. Dù những từ ngữ mang tính biểu tượng như “sự đa dạng”, “nhận thức” và “hiểu biết” tràn ngập các diễn văn về du học (và tiếp thị), rất ít hành động được thực hiện để chống lại sự phân biệt chủng tộc, sự bài ngoại và những vấn đề xã hội khác.

Thay vì thế, trào lưu chống phân biệt chủng tộc nên nhắm đến cách thức các hệ thống và cấu trúc tại chỗ hoạt động để duy trì hoặc phản đối phân biệt chủng tộc bên trong tổ chức. Đó là một triết lý hướng tới sự thay đổi, trước hết đòi hỏi sự phản xạ liên tục, có tính phản biện và sau đó là cam kết tích cực đối với những lựa chọn có thể thúc đẩy công lý và bình đẳng. Để chuyển sang hành động chống phân biệt chủng tộc đích thực, lĩnh vực du học cần bắt đầu bằng việc xem xét lại những diễn ngôn xung quanh các chính sách và thực tiễn của nó.

Điều quan trọng nhất, giải quyết bất bình đẳng chủng tộc có nghĩa là đưa vào mọi chương trình du học cho tất cả sinh viên một chương trình giảng dạy chống phân biệt chủng tộc.

Giải quyết sự bất bình đẳng chủng tộc

Ngôn từ về sự đa dạng trong nhà trường vẫn được định sẵn, theo thiết kế, để không phải thực hiện những gì mà nhà trường hứa hẹn. Đã đến lúc thay đổi giọng điệu lấp lửng này để thể hiện thái độ rõ ràng chống phân biệt chủng tộc và hướng tới đạo đức công bằng xã hội. Trên thực tế, giáo dục đại học có thể thay đổi hiện trạng bằng cách:

  • Tiếp tục đa dạng hóa du học và xem đó là lĩnh vực dẫn đầu.
  • Bác bỏ những tuyên bố vô căn cứ về những lý do sinh viên da màu ít tham gia du học (ví dụ thiếu tài chính, thiếu nền tảng xã hội hoặc văn hóa), và xem xét đưa những điều khoản miễn trừ vào các chính sách của trường, chẳng hạn như điểm GPA tối thiểu;
  • Dành nguồn lực để giúp sinh viên da màu du học. Dành nhiều sự quan tâm hơn cho những nhóm sinh viên da màu ít đại diện, cung cấp tư vấn về văn hóa và hỗ trợ tài chính;
  • Phá vỡ bong bóng du học thường vẫn sắp xếp sinh viên sắp ra trường với các bạn học cùng lứa ở Hoa Kỳ vào những lớp học và hoạt động ngoại khóa theo phong cách Hoa Kỳ, mô hình này ít thách thức quan điểm và cách nhìn của sinh viên hoặc thực sự nâng cao nhận thức của họ về sự khác biệt giữa các dân tộc và nền văn hóa.

Điều quan trọng nhất, giải quyết bất bình đẳng chủng tộc có nghĩa là đưa vào mọi chương trình du học cho tất cả sinh viên một chương trình giảng dạy chống phân biệt chủng tộc. Chẳng hạn chương trình giảng dạy phải giúp sinh viên suy ngẫm về những đặc quyền và vị trí xã hội của họ trên thế giới; gắn kết sinh viên với những vấn đề công bằng xã hội ở nước sở tại; chuẩn bị cho sinh viên những công cụ để tham gia vào môi trường, văn hóa học thuật và giao tiếp với người dân nước sở tại; và khiến sinh viên suy nghĩ về cách thức có thể sử dụng kinh nghiệm của mình để phục vụ những người khác, đặc biệt trong tư cách các nhà lãnh đạo phong trào chống chủ nghĩa phân biệt trong phạm vi trường đại học.

Nhu cầu xác định rõ hơn kết quả học tập đầu ra của quá trình du học là quan trọng hơn bao giờ hết. Bất kỳ nỗ lực nào nhằm thay đổi nhận thức của sinh viên cũng cần phải rõ ràng, có chủ đích và có sự phối hợp. Mặc dù chưa toàn diện, nhưng những bước chúng tôi liệt kê ở trên nhằm giải quyết vấn đề phân biệt chủng tộc, sự loại trừ trong lĩnh vực du học đều hướng đến việc bắt đầu đối thoại.

Kết luận

Theo Hiệp hội các nhà giáo dục quốc tế, có khoảng 341 ngàn sinh viên Mỹ ra nước ngoài du học trong năm học 2018–2019, trong đó 30% là da màu. Du học có vị trí độc tôn để dẫn dắt nền giáo dục chống phân biệt chủng tộc với tất cả sinh viên thuộc mọi nền tảng luật định. Du học có thể cung cấp cho sinh viên một “không gian thứ ba”, ở đó, thoát khỏi bối cảnh xã hội Hoa Kỳ, họ có không gian – cả về thể chất và tinh thần – để quan sát, trải nghiệm và thừa nhận những cách sống và cách làm mới và khác biệt. Đây là cơ hội thực sự để thay đổi nhận thức.