Zhou Yang là Nghiên cứu sinh Tiến sĩ tại Học viện Hành chính công, Đại học Nông nghiệp Nam Kinh, Trung Quốc, và là Giảng viên thỉnh giảng tại Trung tâm Giáo dục Đại học Quốc tế tại Boston College, Hoa Kỳ. E-mail: 361698058@qq.com. Hans de Wit là Giáo sư và Giám đốc của CIHE. E-mail: dewitj@bc.edu.
Quốc tế hóa giáo dục đại học là xu hướng chủ đạo trong phát triển giáo dục đại học, và số lượng sinh viên quốc tế đến học tập ở một quốc gia được coi là một chỉ số quan trọng. Năm 2018, Viện Giáo dục Quốc tế công bố một báo cáo cho thấy, so với năm 2001, năm 2017 đã có những thay đổi lớn về vị trí trong 8 nước đứng đầu về quốc tế hóa giáo dục đại học: Hoa Kỳ vẫn xếp thứ 1, nhưng Bỉ, Nhật Bản và Tây Ban Nha đã biến mất khỏi danh sách. Đức rớt xuống thấp hơn, trong khi Vương quốc Anh và Pháp vẫn giữ được vị trí như trước. Trung Quốc và Canada lần lượt xếp thứ 3 và 6 và Úc từ vị trí thứ năm lên thứ tư. Báo cáo cho thấy kể từ năm 2001, Trung Quốc đã cải thiện đáng kể thành tích trong việc thu hút sinh viên quốc tế. Bài viết này phân tích chi tiết những thành tích của Trung Quốc, và dựa vào số liệu từ một báo cáo của Bộ Giáo dục Trung Quốc.
Số liệu thực tế
Theo báo cáo thống kê về sinh viên quốc tế tại Trung Quốc từ năm 2000 đến 2015 do Bộ Giáo dục công bố, con số này đã tăng từ 52150 năm 2000 lên 397635 vào năm 2015. Châu Á là lục địa có lượng sinh viên đến Trung Quốc du học lớn nhất: 60,40% sinh viên quốc tế đến từ các nước châu Á trong năm 2015. Nhóm sinh viên quốc tế lớn thứ hai đến từ châu Âu, chiếm 16,79% tổng số sinh viên quốc tế . Nhóm lớn thứ ba là sinh viên châu Phi, chiếm 12,52 % tổng số. Sinh viên từ Mỹ chiếm 8,79% và từ châu Đại dương chiếm 1,51%.
Nếu xếp hạng theo quốc gia thì Hàn Quốc dẫn đầu về số lượng sinh viên học tập tại Trung Quốc kể từ năm 2000 và kể từ năm 2008, Hoa Kỳ là quốc gia thứ hai trong danh sách. Trong năm 2015, Hàn Quốc đã gửi 66672 sinh viên đến Trung Quốc (16,77%) và Hoa Kỳ gửi 21975 sinh viên (5,53%). Trong những năm gần đây, số lượng sinh viên quốc tế đến từ Ấn Độ, Indonesia, Kazakhstan, Pakistan, Thái Lan, Việt Nam và các nước châu Á khác đã tăng lên đáng kể.
Về bậc học, mặc dù tỷ lệ sinh viên theo học các chương trình dưới bậc đại học đã giảm sút từ năm 2000, nhóm này vẫn chiếm đa số. Trong năm 2015, sinh viên bậc dưới đại học chiếm 53,53%. Tỷ lệ sinh viên bậc đại học đã tăng lên đến 32,17% vào năm 2015, trong khi sinh viên trên đại học chiếm 13,47%.
Từ năm 2000 đến năm 2015 tỷ lệ sinh viên được nhận học bổng chính phủ Trung Quốc giảm nhẹ. Năm 2000, 10,28% sinh viên nhận học bổng, trong khi năm 2015 tỷ lệ này là 10,21%.
Năm lĩnh vực nghiên cứu hàng đầu sinh viên quốc tế theo học là văn học, y học Trung Quốc, kỹ thuật, y học phương tây và kinh tế. Tỷ lệ sinh viên ngành văn học giảm dần trong 15 năm qua nhưng vẫn chiếm 53,60%. Trong khi đó, tỷ lệ sinh viên ngành y học Trung Quốc giảm từ 7,09% năm 2000 xuống còn 3,09% năm 2015. Tỷ lệ sinh viên học ngành kỹ thuật, tây y và kinh tế tăng lên, trong đó tây y là hấp dẫn nhất với 8,75%. Tỷ lệ sinh viên học ngành kỹ thuật và kinh tế lần lượt đạt 6,56% và 4,70%.
Lộ trình
Sinh viên quốc tế có thể được nhận học bổng từ một số chương trình của Trung Quốc, như chương trình học bổng Học viện Khổng Tử và học bổng của các chính quyền địa phương. Học bổng chính phủ Trung Quốc là chương trình quan trọng nhất, bao gồm cả chi phí sinh hoạt và bảo hiểm y tế cụ thể. Điều đáng chú ý là chương trình học bổng Học viện Khổng Tử ngày càng trở nên quan trọng trong những năm gần đây. Năm 2016, có tới 8840 sinh viên nhận Học bổng Học viện Khổng Tử tại Trung Quốc. Ngoài ra, một số tỉnh của Trung Quốc cũng thiết lập các chương trình học bổng của chính quyền địa phương. Chẳng hạn, tỉnh Giang Tô đã thành lập Học bổng Jasmine tỉnh Giang Tô, trong khi chính quyền Bắc Kinh ra mắt Học bổng Bắc Kinh dành cho Sinh viên Quốc tế (BGS) để hỗ trợ những sinh viên quốc tế xuất sắc học tập tại Bắc Kinh. Học viện Khổng Tử là một hình thức hợp tác giáo dục mới giữa Trung Quốc và nước ngoài. Chẳng hạn, “Chương trình Nghiên cứu Trung Quốc Khổng Tử” là khóa học dành cho sinh viên nước ngoài đến học tại Trung Quốc. Năm 2016, chương trình này đã tuyển 72 nghiên cứu sinh từ 26 quốc gia để tham gia vào chương trình nghiên cứu chung bậc tiến sĩ hoặc theo đuổi bằng tiến sĩ.
Số lượng sinh viên quốc tế gia tăng là kết quả của quan hệ hợp tác kinh tế và giáo dục giữa Trung Quốc và các nước khác. |
Các trường đại học Trung Quốc cung cấp nhiều khóa học bằng tiếng Anh. Theo Bộ Giáo dục Trung Quốc, năm 2009, 34 trường đại học của Trung Quốc đã cung cấp các chương trình sau đại học được dạy bằng tiếng Anh về kinh doanh và quản lý, kỹ thuật, khoa học xã hội, nhân văn và các lĩnh vực khác. Trang web của Hội đồng Học bổng Trung Quốc cho thấy hơn 100 trường đại học cung cấp các khóa học bằng tiếng Anh vào năm 2018.
Cấp giấy phép làm việc đã trở thành một chiến lược ngày càng quan trọng đối với những quốc gia muốn thu hút nhiều sinh viên quốc tế hơn. Sinh viên quốc tế tại Trung Quốc có thể làm việc sau khi nhận được giấy phép. Thượng Hải, Bắc Kinh và Quảng Châu đều công bố thông tin về cách xin giấy phép lao động. Gần đây, chính phủ Trung Quốc đã quyết định thành lập Cục Nhập cư Mới để tập trung xử lý các vấn đề nhập cư cho sinh viên quốc tế. Số lượng sinh viên quốc tế gia tăng là kết quả của quan hệ hợp tác kinh tế và giáo dục giữa Trung Quốc và các nước khác. Trung Quốc đã ra mắt “Sáng kiến Vành đai và Con đường” vào năm 2013 để kích thích hợp tác kinh tế và giáo dục với các nước châu Á và châu Phi cũng như với một số nước châu Âu. Theo dữ liệu về sinh viên quốc tế học tập tại Trung Quốc năm 2017 do Bộ Giáo dục công bố, hơn 60% tổng số sinh viên quốc tế đến từ các khu vực nằm trong “Sáng kiến Vành đai và Con đường”, là những nơi mà trong vài năm sẽ trở thành nguồn cung cấp sinh viên vô cùng quan trọng đối với Trung Quốc.
Thách thức
Như được đề cập ở trên, Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp nhằm thu hút nhiều sinh viên quốc tế hơn, nhưng vẫn đang phải đối mặt với một số thách thức, đặc biệt là số lượng hạn chế sinh viên quốc tế nhận học bổng. Bộ Giáo dục Trung Quốc đã ban hành một danh sách các trường đại học được phép cấp học bổng cho sinh viên quốc tế, nhưng không nhiều trường lọt vào danh sách. Điều này làm suy yếu khả năng cạnh tranh của Trung Quốc trên thị trường giáo dục quốc tế.
Tiếng Trung rất khó học đối với sinh viên quốc tế. Trong những năm gần đây, các trường đại học Trung Quốc đã tổ chức các khóa học bằng tiếng Anh cho sinh viên quốc tế, nhưng hiệu quả thấp. Hầu hết giảng viên vẫn giảng dạy bằng tiếng Trung. Mặc dù các trường đại học Trung Quốc cung cấp các khóa học tiếng Trung cho sinh viên quốc tế, nhưng trình độ của họ vẫn rất hạn chế.
Cơ hội để nhập cư và có được một công việc cũng không nhiều. Hầu hết sinh viên quốc tế đều mong muốn nhập cư hoặc làm việc tại quốc gia họ đến học tập, đặc biệt là những người đến từ các nước đang phát triển. Mặc dù chính phủ Trung Quốc đã sửa đổi các điều kiện cho phép sinh viên quốc tế làm việc sau khi tốt nghiệp, nhưng cho đến nay chỉ có ba thành phố công bố chi tiết cách thức xin giấy phép làm việc. Nếu chính phủ Trung Quốc muốn thu hút nhiều hơn sinh viên quốc tế đến học tập tại Trung Quốc, thì cần tập trung giải quyết ba vấn đề này.