Philip G. Altbach là Giáo sư nghiên cứu và Giám đốc sáng lập, Hans de Wit là Giáo sư và Giám đốc – Trung tâm Giáo dục Đại học Quốc tế, Boston College, Hoa Kỳ. E-mail: altbach@bc.edu; dewitj@bc.edu.
Bức tranh toàn cầu quốc tế hóa giáo dục đại học đang thay đổi đáng kể. Cái mà người ta gọi là “kỷ nguyên quốc tế hóa giáo dục đại học” trong 25 năm qua (1990-2015) giúp định hình tư duy và hành động của các trường đại học có thể đã chấm dứt, hoặc ít ra là đang ở tình trạng cố gắng duy trì. Sự phát triển không ngừng của hiện tượng đa dạng hóa các loại hình quốc tế hóa – gồm dịch chuyển sinh viên toàn cầu với quy mô lớn, mở rộng các phân hiệu các đại học, nhượng quyền thương mại và cấp văn bằng chung, sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ giảng dạy và nghiên cứu trên toàn thế giới và nhiều yếu tố khác – dường như đã kết thúc một cách khá bất ngờ, đặc biệt là ở châu Âu và Bắc Mỹ.
Chủ nghĩa Trump, Brexit và sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc và chính sách chống nhập cư ở châu Âu đang làm thay đổi bức tranh giáo dục đại học toàn cầu. Chúng ta đang chứng kiến việc dịch chuyển cơ bản trong quốc tế hoá giáo dục đại học, đồng nghĩa với việc phải xem xét lại tất cả các dự án quốc tế hóa của các đại học trên toàn thế giới.
Trước tiên là tin vui
Tri thức vẫn mang tính quốc tế. Hợp tác nghiên cứu xuyên quốc gia tiếp tục tăng. Hầu hết các trường đại học thừa nhận rằng việc cung cấp tầm nhìn quốc tế cho sinh viên là nội dung trung tâm của thế kỷ 21. Sự dịch chuyển sinh viên toàn cầu tiếp tục gia tăng mặc dù với tốc độ chậm hơn so với trước đây – với khoảng 5 triệu sinh viên đang theo học ở nước ngoài. Chương trình hợp tác và dịch chuyển chính của châu Âu là ERASMUS+ vẫn còn vững chắc – và thậm chí có thể nhận thêm nguồn tài trợ. Khu vực ASEAN đang đi theo đường hướng tương tự như Liên minh châu Âu trong việc thúc đẩy hài hoà các cơ cấu học thuật, cải thiện đảm bảo chất lượng và tăng cường liên kết khu vực trong giáo dục đại học. “Quốc tế hóa tại chỗ” và “toàn cầu hóa toàn diện” đã đi vào từ vựng của giáo dục đại học trên toàn thế giới.
Nhưng những khuynh hướng tích cực này không che khuất được rằng năm 2018 đang có thêm một số xu hướng đáng lo ngại bổ sung vào thực tiễn 2017. Brexit (Anh ra khỏi Liên minh châu Âu) bùng nổ vào năm 2016, tiếp theo là cuộc bầu cử của Donald Trump – đã làm bộc lộ các vấn đề như đã dự đoán. Ngày càng khó lấy thị thực nhập cảnh, bầu không khí không hoan nghênh người ngoại quốc và các vấn đề khác đang làm suy giảm số lượng sinh viên quốc tế tại Anh quốc và Hoa Kỳ.
Tình hình gần đây cho thấy những xu hướng tương lai có khả năng ảnh hưởng sâu sắc đến các khía cạnh quốc tế của giáo dục đại học – ít nhất là trong trung hạn. Một số ví dụ sau minh hoạ cho các xu hướng này.
Hạn chế sinh viên quốc tế và việc sử dụng tiếng Anh
Ở Hà Lan, một nước vốn được coi là có tư tưởng quốc tế cởi mở nhất trên thế giới, bắt đầu diễn ra những tranh luận gay gắt trên các phương tiện truyền thông, trong các chính sách và ngay trong khu vực giáo dục đại học về việc hạn chế quốc tế hóa. Hiệu trưởng Đại học Amsterdam lập luận rằng các chương trình học thuật giảng dạy bằng tiếng Anh trở nên quá phổ biến và nên giảm bớt, rằng đang có quá nhiều sinh viên quốc tế. Lập luận của ông nhận được sự ủng hộ rộng rãi, dẫn đến việc các chương trình này có thể bị thu hẹp và cắt giảm.
Ở các nước khác, bao gồm Đức, Đan Mạch và Italy, cũng diễn ra những cuộc tranh luận về tác động tiêu cực của tiếng Anh đối với chất lượng giảng dạy. Tiếng Anh sẽ vẫn là ngôn ngữ phổ biến của truyền thông và học thuật khoa học, nhưng sự thống trị của nó có thể đã đạt đến mức trần.
Chủ nghĩa Trump, Brexit và sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc và chính sách chống nhập cư ở châu Âu đang làm thay đổi bức tranh giáo dục đại học toàn cầu. Những thách thức của giáo dục xuyên quốc gia |
Ở một diễn biến khác, dự án thành lập phân hiệu do Đại học Groningen (Hà Lan) phối hợp với Đại học Nông nghiệp Trung Quốc tại Yên Đài, tỉnh Sơn Đông, đã bất ngờ dừng thực hiện sau khi các giảng viên và sinh viên ở Groningen phản đối những hạn chế tự do học thuật ở Trung Quốc, và bởi vì thiếu sự tham vấn của địa phương về dự án. Điều này có thể ảnh hưởng đến các chương trình liên kết khác ở Trung Quốc, và có lẽ ở những nơi khác nữa, vì cả hai bên đều xem xét kỹ hơn những hệ quả về cấu trúc, về học thuật và chính sách trong việc phát triển phân hiệu và việc thực hiện các sáng kiến hợp tác khác. Nhìn chung, có thể thời kỳ tăng trưởng của các phân hiệu, các khu vực thu hút giáo dục (educational hub), hoạt động nhượng quyền thương mại và các hình thức giáo dục xuyên quốc gia khác đã qua rồi.
Tự do học thuật và kiểm soát
Vấn đề về ảnh hưởng của Trung Quốc với giáo dục đại học của Úc cũng được thảo luận rộng rãi. Các nhóm sinh viên Trung Quốc ở Úc và chính phủ Trung Quốc bị buộc tội tìm cách hạn chế những chỉ trích Trung Quốc và phá vỡ tự do học thuật. Kết hợp với những chỉ trích ở Úc và các nước khác-nơi có các Học viện Khổng Tử được Trung Quốc tài trợ để gây ảnh hưởng đến các trường đại học – những xu hướng này phản ánh mối quan tâm ngày càng tăng về ảnh hưởng của Trung Quốc và có thể của các nước khác nữa đối với các trường đại học. Cũng là một lý do mạnh mẽ trong việc hủy bỏ phân hiệu Đại học Groningen và các phân hiệu đại học của Mỹ ở Trung Quốc và Trung Đông, tự do học thuật đang thách thức tương lai của giáo dục xuyên quốc gia và tuyển sinh quốc tế, đặc biệt ở những nước mà tự do học thuật không được đảm bảo.
Mối quan tâm ngày càng tăng về đạo đức
Chính phủ Đan Mạch phát hiện ra rằng một số sinh viên nước ngoài và sinh viên có gốc nhập cư ở Đan Mạch đã sử dụng địa chỉ giả mạo để nhận tiền trợ cấp sinh viên. Các báo cáo từ một số quốc gia khác cũng tuyên bố rằng sinh viên quốc tế gian lận trong thi cử. Những câu chuyện như vậy làm tăng quan điểm tiêu cực về sinh viên quốc tế.
Miễn học phí cho sinh viên quốc tế đến hồi kết
Na Uy đã tăng lệ phí visa cho sinh viên quốc tế – một động thái mà các nhà quan sát cho rằng là bước đầu tiên hướng tới thu học phí sinh viên quốc tế. Hai bang của Đức cũng bắt đầu đặt ra mức phí cho sinh viên quốc tế, một động thái quyết liệt cắt đứt với truyền thống miễn phí trong quá khứ. Các cuộc thảo luận liên quan đến tăng học phí đối với sinh viên nước ngoài trở nên phổ biến, các quốc gia muốn sử dụng nguồn thu từ sinh viên quốc tế để chu cấp cho giáo dục đại học trong nước – một thực tiễn đã được áp dụng tại Úc trong nhiều thập kỷ. Mặc dù những cuộc tranh luận về miễn học phí cho sinh viên bản địa ngày càng căng thẳng hơn bao giờ hết, có vẻ như học phí đối với sinh viên quốc tế đang từng bước được tăng lên.
Yếu tố quốc xã – dân túy
Sự thành công của phe cánh hữu và các lực lượng dân chủ ở nhiều nước châu Âu sẽ có tác động đáng kể đến chính sách giáo dục đại học, mặc dù các chi tiết cụ thể vẫn chưa rõ ràng. Cuộc tranh cãi liên quan đến Đại học Trung Âu ở Hungary cho thấy chính phủ ngày càng độc tài đang cố gắng tìm cách loại bỏ một trường đại học quốc tế nổi tiếng với quan điểm tự do. Sự ra đời của các chính phủ quốc xã ở Áo, Cộng hòa Séc và Ba Lan có thể sẽ ảnh hưởng đến chính sách giáo dục đại học và giáo dục đại học quốc tế ở các nước này. Ngay cả khi không nắm quyền lực như ở Pháp, Đức, Italy và Hà Lan, và dù ở vị trí chính trị không còn quá quan trọng, tư tưởng của các đảng phái này vẫn tạo ảnh hưởng qua các diễn thuyết công khai. Chính phủ bảo thủ ở Anh vẫn đang phải vật lộn để giải quyết hậu quả tác động của Brexit đến các trường đại học Anh tham gia vào các chương trình châu Âu, và đến tầm quan trọng của sinh viên và giảng viên quốc tế trong nền kinh tế tri thức của nước này.
Xu hướng chống đối?
Mặc dù ngày càng có nhiều thách thức chính trị, kinh tế và học thuật đối với quá trình quốc tế hóa giáo dục đại học ở châu Âu và Bắc Mỹ, thế giới phi phương Tây ngày càng quan tâm nhiều hơn đến quốc tế hóa. Nhưng ngay cả ở khu vực đó cũng xuất hiện vấn đề. Hai quốc gia lớn nhất là Trung Quốc và Ấn Độ cũng gặp một loạt thách thức.
Nhiều người đã nhận xét rằng ở một số khía cạnh, Trung Quốc đang dần dần “đóng cửa về mặt học thuật”, mặc dù số sinh viên trong nước tăng lên đáng kể. Thêm những hạn chế truy cập Internet, nhấn mạnh các nội dung giáo dục ý thức hệ, nảy sinh thêm các vấn đề trong tự do học thuật (đặc biệt là trong các ngành khoa học xã hội) và nhiều vấn đề khác nữa.
Lần đầu tiên Ấn Độ đã đưa quốc tế hóa giáo dục đại học thành một mục tiêu chính của chính sách giáo dục quốc gia. Nhưng Ấn Độ thiếu cơ sở hạ tầng thích hợp, phải vật lộn với những vấn đề trong việc định hình các cơ cấu học thuật của mình để có thể tiếp nhận một lượng lớn sinh viên quốc tế, và logistic là thách thức đáng kể.
Rất có thể những sinh viên muốn theo đuổi bằng cấp học thuật nước ngoài hoặc muốn có kinh nghiệm quốc tế sẽ rời bỏ các nước Bắc Mỹ và châu Âu – nơi họ ít được chào đón. Nhưng những quốc gia tiềm năng nơi các sinh viên này hướng đến cũng có những vấn đề riêng của họ.
Các nhận thức cần thiết
Điều đầu tiên là những ai tham gia vào quốc tế hóa giáo dục đại học đều phải nhận thức rằng thực tiễn đã thay đổi, và những diễn biến hiện tại cũng như trong tương lai có thể sẽ vượt ra ngoài sự kiểm soát của cộng đồng học thuật.
Những thực tiễn mới mẻ này sẽ có ý nghĩa quan trọng đối với giáo dục đại học nói chung và đặc biệt là với việc quốc tế hóa. Những chỉ trích hiện nay về sự phát triển không giới hạn của việc giảng dạy bằng tiếng Anh, về tuyển sinh quốc tế, và sự nhân rộng của các phân hiệu đại học – đến từ hai nguồn hoàn toàn ngược nhau. Một bên là chủ nghĩa quốc gia – dân túy chống quốc tế hóa và chống nhập cư. Liên quan nhiều đến xu hướng này là những quan tâm về chất lượng, tự do học thuật và đạo đức trong cộng đồng giáo dục đại học. Lời kêu gọi một cách tiếp cận khác, nhấn mạnh hơn đến “Quốc tế hóa tại chỗ” của Hiệu trưởng Đại học Amsterdam, cũng như của Jones và de Wit (UWN số 486), một hướng quốc tế hóa toàn diện hơn, có thể được xem là cơ hội quốc tế hóa với sự dịch chuyển từ số lượng sang chất lượng. Tuy nhiên, nếu chủ nghĩa dân tộc-dân túy chiếm ưu thế thì điều này có thể dẫn đến sự kết thúc của quốc tế hóa. Các nhà lãnh đạo giáo dục đại học trên thế giới cần giữ lập trường vững vàng ủng hộ quan điểm chất lượng.