Xu hướng dịch chuyển của sinh viên tại Hoa Kỳ trong bối cảnh toàn cầu

Rajika Bhandari là Phó Chủ tịch, làm công tác nghiên cứu và đánh giá tại Viện Giáo dục Quốc tế (IIE),New York, Hòa Kỳ. E-mail: rbhan- dari@iie.org.

Trên toàn thế giới, số lượng sinh viên mong muốn được tiếp cận nền giáo dục đại học Mỹ ngày càng tăng, hiện nay có gần một triệu sinh viên đến từ hơn 200 quốc gia đang học tập tại đây. Trong những năm vừa qua, phần lớn sự tăng trưởng được tạo nên bởi các sinh viên bậc đại học đến từ Trung Quốc, điều này làm thay đổi cán cân thăng bằng giữa sinh viên quốc tế sau đại học và sinh viên quốc tế bậc đại học tại Mỹ. Một phần tăng trưởng đáng kể cũng được thúc đẩy bởi các chương trình học bổng chính phủ quy mô lớn, sinh viên của các chương trình này được gửi đến Mỹ chủ yếu để học tiếng Anh chuyên sâu hoặc theo đuổi các chương trình học tập không cấp bằng trong các lĩnh vực STEM (Khoa học – Công nghệ – Kỹ thuật – Toán học). Nhìn chung, nhu cầu về giáo dục STEM vẫn còn cao, hầu hết sinh viên quốc tế tại Mỹ lựa chọn theo học những chương trình STEM cấp bằng trong khi vẫn tận dụng Khóa đào tạo Thực tiễn Tùy chọn 29 tháng. Trong bối cảnh của những xu hướng chung này, bài viết này xem xét những trào lưu phát triển chính hiện đang định hình xu hướng dịch chuyển sinh viên quốc tế ở Mỹ và trên toàn cầu.

Chương trình học bổng quốc gia: tăng trưởnghay giảm sút?

Các chương trình học bổng quốc gia tiếp tục thúc đẩy sự gia tăng số lượng du học sinh đến Mỹ, nhưng cũng đặt ra câu hỏi quan trọng về sự bền vững của đầu tư vào giáo dục và trao đổi học thuật quốc tế. Nhiều tổ chức giáo dục của Mỹ chủ yếu dựa vào các sinh viên Ả rập Saudi và nguồn lực mà họ mang đến, và sự giảm sút và suy yếu của các chương trình này chắc chắn sẽ tạo ra một khoảng trống. Đối với ngành giáo dục đại học Mỹ nói chung, câu hỏi đặt ra là làm thế nào để duy trì những mối liên kết đã được các chương trình này hình thành và cách điều chỉnh chiến lược tuyển sinh để bù vào số lượng sinh viên Brazil và Saudi bị giảm sút. Còn đối với các quốc gia có số lượng lớn thanh thiếu niên đang du học tại Mỹ, câu hỏi đặt ra là nền kinh tế lao động sẽ tiếp nhận những tài năng được đào tạo toàn cầu này như thế nào và khoản đầu tư quan trọng như vậy sẽ có những tác động dài hạn gì.

Sinh viên dịch chuyển toàn cầu: những vấn đề cần quan tâm

Chênh lệch giới tính: Trong khi số lượng sinh viên nữ dịch chuyển toàn cầu ngày càng tăng lên, cả các nước gửi đi và các nước tiếp nhận du học sinh vẫn cần cố gắng hơn nữa để thu hẹp khoảng cách chênh lệch giới tính trong giáo dục quốc tế, đặc biệt trong một số lĩnh vực học tập và nghiên cứu. Chênh lệch tỷ lệ nam nữ trong sinh viên quốc tế đến Mỹ trong 3 thập niên vừa qua đã giảm đi đáng kể, nhưng lại tăng lên trong hai năm gần đây. Điều này có lẽ liên quan đến sự gia tăng số lượng sinh viên quốc tế đến từ các quốc gia có truyền thống trọng nam, nơi mà xã hội không khuyến khích nữ sinh du học.Nhưng cũng có thể bởi lý do gia tăng số lượng sinh viên quốc tế theo đuổi các ngành họcSTEM, vốn là những lĩnh vực mà theo truyền thống sinh viên nam vẫn chiếm số đông. Chính phủ và các tổ chức của các quốc gia gửi sinh viên đi du học cần khuyến khích nhiều nữ sinh hơn bằng các học bổng và chương trình trao đổi sinh viên; các trường đại học Hoa Kỳ, đặc biệt những trường thu hút được số lượng lớn sinh viên quốc tế trong lĩnh vực STEM, cần cân nhắc các biện pháp thu hút thêm sinh viên quốc tế nữ theo học các chương trình của họ.

Dịch chuyển học thuật: Bắt đầu từnăm 2015, thế giới chứng kiến làn sóng di dân ở quy mô lớn chưa từng thấy trong nhiều thế hệ, và thanh thiếu niên di dân phải đối mặt với nhiều thách thức để chuẩn bị hoặc tiếp cận với nền giáo dục đại học. Theo ước tính của Viện Giáo dục Quốc tế (IIE), riêng ở Syria, hơn 100 ngàn sinh viên đại học và 2000 giáo sư đại học đang phải sống tị nạn, việc học tập nghiên cứu và sự nghiệp của họbị gián đoạn vô thời hạn. Trong năm 2015, có 2.13 triệu người tị nạn đăng ký với Hoa Kỳ, một nửa trong số họ dưới 18 tuổi và chưa vào đại học, và nhiều người khác bị gián đoạn việc học tập. Chỉ 1% thanh thiếu niên tị nạn trong độ tuổi học đại học đã ghi danh vào các trường đại học, trong khi tỷ lệ này trên toàn thế giới là 34%. Chi phí cho học tập và đi lại, không có giấy tờ tùy thân và học bạ, thiếu những xác nhận quá trình học tập trước đó, rào cản ngôn ngữ, áp lực trong công việc hoặc trách nhiệm gia đình, sự phân biệt trong cộng đồng và khó khăn gặp phải trong tiếp nhận thông tin, tất cả điều này đều cản trở họ tiếp cận giáo dục. Mặc dù nhiều người đã được hỗ trợ tài chính và được giúp đăng ký học và công nghệ đang được khai thác để tiếp cận những sinh viên di tản, nhu cầu vẫn còn rất lớn và dự kiến sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới.

Công bằng và cơ hội tiếp cận giáo dục đại học: Việc thông qua Mục tiêu Phát triển Bền vững của Liên hợp quốc (SDGs) trong năm 2015 mang lại trọng tâm mới cho các vấn đề quan trọng là công bằng và cơ hội tiếp cận giáo dục đại học cũng như giáo dục đại học quốc tế, và mang đến cơ hội trải nghiệm toàn cầu cho nhiều đối tượng sinh viên đa dạng. Các chương trình học bổng được tài trợ bởi chính phủ và các tổ chức tư nhân như Quỹ Ford và Quỹ Mastercard thường hướng tới cung cấp học bổng quốc tế cho những cá nhân chịu thiệt thòi từ các nước đang phát triển. Nghiên cứu cho thấy những nỗ lực có mục đích này làm tăng lên đáng kể cơ hội tiếp cận giáo dục quốc tế, và có ảnh hưởng cấp số nhân đến các cộng đồng và quốc gia. Vế kia của phương trình công bằng là hiện tượng chảy máu chất xám và thất thoát nguồn nhân lực được đào tạo. Trong khi nhiều khu vực trên thế giới có tỷ lệ du học sinh đại học khá lớn (như châu Á) đã bắt đầu thấy được sự đổi chiều trong “tuần hoàn chất xám”, khi nhiều công dân được đào tạo ở nước ngoài trở về quê hương làm việc, thì châu Phi vẫn tiếp tục chịu mất mát nặng nề nguồn nhân lực do sinh viên ra nước ngoài du học. Điều này đặt ra vấn đề nghĩa vụ và trách nhiệm của ngành giáo dục đại học và ngành công nghiệp quốc tế: cần đảm bảo sự cân bằng giữa nhu cầu giữ được nguồn nhân lực quan trọng của các nước đang phát triển và nhu cầu và khát vọng của cá nhân tìm kiếm nền giáo dục tốt nhất có thể, bất kể nó được cung cấp ở đâu. Trong một mức độ nhất định, sự mất cân bằng này được giải quyết bằng các học bổng dưới hình thức viện trợ phát triển, được các chính phủ các nước phát triển trao cho sinh viên đến từ các nước đang phát triển và được giám sát theo Mục tiêu 4b của SDGs. Nhưng theo một phân tích gần đây của IIE về số liệu học bổng toàn cầu hiện có, số lượng học bổng dạng đó rất ít và chỉ chiếm 1% tổng số sinh viên từ các nước đang phát triển đang theo đuổi nền giáo dục toàn cầu.

Các chương trình học bổng quốc gia tiếp tục thúc đẩy sự gia tăng du học sinh đến Mỹ, nhưng cũng đặt ra câu hỏi quan trọng về sự bền vững của đầu tư vào giáo dục và trao đổi học thuật quốc tế.

Không khí chính trị thay đổi và tương lai của sự dịch chuyển

Một trong những phát triển quan trọng nhất trong hai năm qua là sự trỗi dậy của chủ nghĩa quốc gia trên toàn thế giới và điều này được coi là sự chuyển hướng của một số quốc gia vốn vẫn thu hút được số lượng lớn sinh viên và học giả từ khắp nơi trên thế giới. Sự kiện đầu tiên là “Brexit” ở Anh vào năm 2016, điều này có khả năng gây ra những hệ quả sâu rộng đối với sự dịch chuyển của sinh viên vào và ra khỏi nước Anh, cũng như sự dịch chuyển giữa Anh và lục địa châu Âu. Tương tự, những thay đổi chính trị ở Hoa Kỳ và hai lệnh cấm nhập cảnh đối với cá nhân từ 7 quốc gia vào tháng 1 và tháng 3 năm 2017 đã đặt ra nhiều câu hỏi về việc liệu nước Mỹ có còn là điểm đến hấp dẫn đối với sinh viên quốc tế hay không.

Mặc dù có nhiều suy đoán về vấn đề này và về quy mô ảnh hưởng đối với sinh viên du học tại Mỹ, một cuộc khảo sát nhanh được tiến hành gần đây bởi AACRAO (Hiệp hội các tổ chức đăng ký và nhập học đại học Mỹ) phối hợp với IIE, Hội đồng các trường đại học, NAFSA và NACAC (Hiệp hội quốc gia về Tư vấn Tuyển sinh đại học và Hiệp hội Quốc tế về Tư vấn Tuyển sinh đại học) chỉ ra rằng 39% trong số 250 trường đại học của Mỹ báo cáo có sự sụt giảm đăng ký học của sinh viên quốc tế, đặc biệt là từ Trung Đông. Sự sụt giảm cũng xảy ra với sinh viên từ Ấn Độ và Trung Quốc ở cả bậc đại học và sau đại học. Cần lưu ý rằng mặc dù cuộc khảo sát này cung cấp một số thông tin cần thiết trong giai đoạn thiếu sự ổn định nhưng đó chỉ là một phác họa dựa trên sự phản hồi của một nhóm khiêm tốn các tổ chức đào tạo.

Điều quan trọng là những phát triển hiện tại của Mỹ đã huy động được cộng đồng giáo dục quốc tế – bao gồm các tổ chức và hiệp hội giáo dục đại học – phát triển các chiến lược chung và nhấn mạnh hơn vào giá trị của giáo dục quốc tế. Các tổ chức giáo dục của Mỹ đã khởi động các nỗ lực phối hợp để truyền tải đến sinh viên quốc tế thông điệp mạnh mẽ rằng họ vẫn được chào đón thông qua chiến dịch #YouAreWelcomeHere (Ở đây các bạn được chào đón) và các sáng kiến tương tự khác.