Johann Mouton và Marthie van Niekerk
Johann Mouton là Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu về Đánh giá, Khoa học và Công nghệ và là Giám đốc Trung tâm Xuất sắc DSTI-NRF về Khoa học đo lường và Chính sách Đổi mới Khoa học và Công nghệ, Đại học Stellenbosch, Nam Phi. E-mail: jm6@sun.ac.za.
Marthie van Niekerk là Quản lý trung tâm tại cả hai trung tâm trên. E-mail: mvn3@sun.ac.za.
Thuật ngữ “xuất bản săn mồi” (predatory publishing) đề cập đến bản chất bóc lột và lừa dối của các tạp chí săn mồi, được xuất bản chỉ vì lợi nhuận mà không quan tâm đến các yếu tố học thuật. Bài viết này thảo luận về sự phát triển và động cơ của xuất bản săn mồi và tác động của nó đối với giáo dục đại học quốc tế.
Mặc cho một niềm tin rằng, các học giả thường hành xử có đạo đức khi công bố các kết quả nghiên cứu học thuật của họ đến đông đảo khán giả, các hình thức hành vi xuất bản phi đạo đức và gian lận đã tự bộc lộ bản chất trong những năm qua. Chuẩn mực “vô tư” được nhà xã hội học Robert Merton mô tả vào năm 1942 thể hiện ý tưởng rằng các nhà khoa học chỉ nên làm việc vì lợi ích của khoa học. Cam kết với lý tưởng này sẽ loại trừ việc theo đuổi nghiên cứu vì các mục tiêu khác như làm giàu, tự quảng bá, hoặc tạo sự ảnh hưởng cá nhân.
Thật không may, như nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, không phải tất cả các nhà khoa học và học giả đều tuân thủ các chuẩn mực này. Nhiều biểu hiện trái ngược với những lý tưởng đã được ghi nhận trong các ấn phẩm đã xuất bản như đạo văn và tự đạo văn, thiên vị có hệ thống đối với các tác giả nữ, gian lận trong bình duyệt thông qua người bình duyệt và đánh giá giả mạo, sử dụng tác giả ma (ghost authors) và điều này đã tạo ra sự ra đời của xuất bản săn mồi trong giới học thuật.
Bài báo sẽ mô tả nguồn gốc và sự phát triển của xuất bản săn mồi, thảo luận về các động cơ chính đằng sau sự phát triển này và kết luận với một số nhận xét về tác động của nó trong giáo dục đại học.
Nguồn gốc và những diễn biến tiếp theo
Thuật ngữ “xuất bản săn mồi” thường được gán cho Jeffrey Beall, một thủ thư trước đây tại Đại học Colorado ở Denver, Hoa Kỳ. Ông đã đặt ra thuật ngữ “săn mồi” vào năm 2010, cùng năm đó đã thành lập một trang web và một blog và nó đã giúp ông có được danh tiếng là “người giám sát” không chính thức của những xuất bản săn mồi. Ông đã gỡ bỏ trang web vào năm 2017 do những lời đe dọa cá nhân mà ông nhận được. Danh sách của Beall đã được một người đóng góp ẩn danh lưu trữ, trong khi các công ty như Cabells tiếp tục ghi lại những gì họ coi là nhà xuất bản hay tạp chí săn mồi.
Trong một ấn phẩm hệ thống hơn về chủ đề này được xuất bản trên Nature vào năm 2012, Beall đã cung cấp một mô tả chính thức hơn về ý nghĩa của xuất bản săn mồi: “Sau các nhà xuất bản săn mồi là những người xuất bản các tạp chí giả mạo để lợi dụng mô hình truy cập mở, trong đó tác giả trả tiền. Những nhà xuất bản săn mồi này không trung thực và thiếu minh bạch. Chúng được sinh ra nhằm mục đích lừa gạt các nhà nghiên cứu, đặc biệt là những người thiếu kinh nghiệm về truyền thông học thuật. Họ thiết lập các trang web rất giống với các nhà xuất bản trực tuyến, đồng thời hợp pháp và xuất bản các tạp chí có chất lượng đáng ngờ. Nhiều nơi tuyên bố có trụ sở tại Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Canada hoặc Úc nhưng thực sự đến từ Ấn Độ, Nigeria hoặc Pakistan. Một số nhà xuất bản săn mồi gửi email rác cho các nhà nghiên cứu, mời gọi bản thảo nhưng không đề cập đến phí tác giả”.
Công trình tiên phong của Beall đã thúc đẩy một lượng lớn giới học thuật trên toàn thế giới suy ngẫm về ý nghĩa và sự phổ biến của xuất bản săn mồi. Phần lớn công trình này có thể được xem là sự mở rộng nỗ lực của Beall nhằm mô tả phạm vi khoa học và vị trí địa lý của xuất bản “săn mồi”. Mặc dù vậy, trong một thời gian dài, chưa có định nghĩa thống nhất về các đặc điểm chính của một tạp chí săn mồi.
Tháng 4/2019, Trung tâm nghiên cứu tạp chí Canada (Canadian Centre for Journalology) đã tổ chức Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về tạp chí săn mồi. Một định nghĩa đồng thuận đã được soạn thảo bởi các học giả và chuyên gia tham dự hội nghị thượng đỉnh và sau đó được xuất bản trên Nature: “Tạp chí và nhà xuất bản săn mồi là các thực thể ưu tiên lợi ích cá nhân hơn là các yếu tố học thuật, đặc trưng bởi thông tin sai lệch hoặc gây hiểu lầm, so với các nhà biên tập hay nhà xuất bản khác, chúng thiếu minh bạch, sử dụng các lời mời chào một cách bừa bãi”.
Định nghĩa này bao gồm hầu hết các đặc điểm chính của “săn mồi” được các tác giả trước đó nhấn mạnh: thực tế là các tạp chí như vậy ưu tiên lợi nhuận tài chính hơn học thuật; thường làm sai lệch hoặc trình bày sai thông tin về các chỉ số chính về tạp chí của họ; không tuân thủ các quá trình biên tập/xuất bản chuẩn mực; thiếu minh bạch trong thực hành kinh doanh. Định nghĩa này cung cấp một cơ sở vững chắc cho các cuộc tranh luận hiện tại và tương lai về ý nghĩa khi chúng ta sử dụng thuật ngữ “săn mồi”.
Các nguyên nhân và động cơ chính
Dường như có hai động cơ chính dẫn đến sự phổ biến rộng rãi của xuất bản săn mồi và các xuất bản đáng ngờ khác trong giới học thuật hiện đại.
Thứ nhất liên quan đến cơ hội cho các gian lận và hoạt động phi đạo đức trở nên khả thi thông qua xuất bản kỹ thuật số vào những năm 1990 cũng như phong trào truy cập mở (Open Access – OA) sau đó. Việc lạm dụng hệ thống xuất bản học thuật vì lợi ích và lợi nhuận cá nhân đã trở nên dễ dàng hơn nhiều. Không phải sự xuất hiện của truy cập mở đã trực tiếp dẫn đến sự xuất hiện của các nhà xuất bản hoặc tạp chí săn mồi, nhưng nó chắc chắn đã tạo ra các cơ hội vật chất để tình trạng này diễn ra. Tất cả hoặc hầu hết các đặc điểm của “săn mồi” được thảo luận trong bài báo này, chẳng hạn như việc tạo ra các tạp chí giả mạo, chỉ số giả mạo, trang web và ban biên tập giả mạo, v.v…, điều này chỉ trở nên khả thi nhờ Internet và sự chuyển đổi sau đó từ tạp chí in sang tạp chí điện tử.
Việc đồng thời xuất hiện phong trào OA và xuất bản săn mồi không tự nó giải thích cho tốc độ và phạm vi địa lý ngày càng tăng của các ấn phẩm đáng ngờ như vậy. Động cơ thứ hai rõ ràng nằm ở văn hóa quản lý hiệu suất thấm nhuần mọi khía cạnh văn hóa học thuật của chúng ta. Đây không chỉ đơn thuần là việc tái giới thiệu một hình thức cũ hơn của văn hóa “công bố hay là chết” (publish or perish) đã tồn tại hàng thập kỷ, mà còn là sự mở rộng rộng rãi các ý tưởng quản lý công mới dưới hình thức các chỉ số mới để đánh giá hiệu suất học thuật. James Wilsdon đã đề cập đến vấn đề này vào năm 2015 là “làn sóng chỉ số” (the metric tide) tại các trường đại học. Về bản chất, vấn đề là về sự hội tụ của các hình thức quản lý trước đây tại các cơ sở sau trung học với những phát triển gần đây hơn trong thư mục học và chỉ số thay thế (altmetrics), cũng như việc áp dụng không phù hợp các chỉ số như yếu tố ảnh hưởng của tạp chí (JIF) và h-index trong việc tuyển dụng và thăng tiến của cán bộ học thuật.
Hiệu suất hoặc thành công học thuật thường xuyên được đánh đồng với một điểm số hoặc chỉ số nào đó, cụ thể hơn là với các chỉ số ưu tiên số lượng, sản lượng và các con số. Các khía cạnh định tính của công việc học thuật, vốn không thể quy giản thành các thước đo đơn giản như số lượng ấn phẩm, h-index, hoặc JIF, đã bị bỏ qua một cách tùy tiện.
Trong một nghiên cứu được thực hiện vào năm 2018 bởi Trung tâm Nghiên cứu về Đánh giá, Khoa học và Công nghệ – Centre for Research on Evaluation, Science and Technology (CREST), các học giả Nam Phi được yêu cầu liệt kê các yếu tố mà họ tin là phù hợp nhất với họ khi được bổ nhiệm vào vị trí nào đó hoặc được thăng chức. Không có gì ngạc nhiên, ba lý do được xếp hạng cao nhất bởi những người trả lời là: xuất bản trên các tạp chí được lập chỉ mục trong Web of Science hoặc Scopus; hướng dẫn và đào tạo sinh viên sau đại học và xuất bản trên các tạp chí có yếu tố ảnh hưởng cao. Cũng thú vị không kém khi việc tham gia cộng đồng và đóng góp dịch vụ cho trường đại học là những yếu tố được xếp hạng thấp nhất.
Tác động của xuất bản săn mồi
Khi tác động của phong trào OA được kết hợp với văn hóa học thuật ưu tiên các chỉ số định lượng và các cơ chế khuyến khích được đưa ra để thưởng cho các học giả vì đã xuất bản càng nhiều bài báo càng tốt mà không xem xét chất lượng hoặc tính toàn vẹn, không có gì ngạc nhiên khi những ý định tốt đẹp của các cơ chế khuyến khích như vậy lại dẫn đến những hậu quả tai hại.
Khi thấy rõ rằng các học giả tại một số trường đại học nhất định liên tục tham gia vào các hình thức nghiên cứu và xuất bản phi đạo đức không trung thực – dù đó là xuất bản săn mồi, cố ý theo đuổi các nhóm xuất bản và trích dẫn, gán tên tác giả giả mạo, hoặc các hình thức khác – danh tiếng của các trường đại học này sẽ ngày càng bị hoen ố. Hơn nữa, sự khoan dung đối với các thực hành như vậy của ban lãnh đạo trường đại học sẽ dẫn đến sự xói mòn niềm tin vào danh tiếng của trường đại học, không chỉ bởi phần còn lại của giới học thuật mà còn bởi các bên liên quan khác (cựu sinh viên, nhà tài trợ) và cuối cùng là công chúng. Trừ khi các học giả luôn cảnh giác về những loại hành vi này và hành động dứt khoát để loại bỏ chúng, nếu không niềm tin và sự tin cậy của công chúng vào khoa học sẽ suy giảm, gây thiệt hại lâu dài cho hoạt động khoa học.