You Zhang
You Zhang là Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ tại Viện Nghiên cứu Giáo dục Ontario, Đại học Toronto, Canada. E-mail: youzhang.zhang@utoronto.ca.
Bài viết này dựa trên một bài báo tạp chí đã được xuất bản trước đó: Zhang, Y. (2024). Khu vực hóa Giáo dục Đại học ở Đông Á và Đông Nam Á: Giữa Phi thực dân hóa, Tái thực dân hóa và Tự thực dân hóa. https://doi.org/10.1007/s10734-024-01295-x
Lời kêu gọi thay đổi giáo dục đại học toàn cầu để bớt phụ thuộc vào các chuẩn mực phương Tây (gọi là phi thực dân hóa) đang ngày càng mạnh mẽ. Ở Đông Á và Đông Nam Á, việc các nước trong khu vực tăng cường hợp tác cho thấy một sự thay đổi theo hướng phi thực dân, thách thức sự thống trị của phương Tây trong giáo dục đại học toàn cầu. Tuy nhiên, hợp tác khu vực thường bị coi là kém quan trọng hơn so với việc hợp tác với các trường ở phương Tây, điều này làm dấy lên lo ngại rằng chính các trường trong khu vực lại vô tình củng cố sự thống trị của phương Tây trong giáo dục đại học toàn cầu.
Các cuộc thảo luận về sự thống trị vẫn tồn tại của phương Tây trong giáo dục đại học toàn cầu đã gia tăng. Sự thống trị này thường liên quan đến “chế độ thuộc địa” (coloniality) – một khái niệm chỉ việc các cách sống và kiến thức của phương Tây được coi là chuẩn mực hợp pháp thông qua các cấu trúc thực dân tồn tại dai dẳng qua lịch sử và đến tận ngày nay. Chế độ thuộc địa gạt bỏ các truyền thống phi phương Tây sang bên lề, dẫn đến bất công về kiến thức và mất đi sự đa dạng văn hóa và tri thức. Trong giáo dục đại học toàn cầu, chế độ thuộc địa thể hiện rõ nhất qua sự thống trị của tiếng Anh trong các công bố nghiên cứu. Ở Đông Á và Đông Nam Á, chế độ thuộc địa cũng biểu hiện trong việc quốc tế hóa chương trình học, thường có nghĩa là nhập khẩu các tiêu chuẩn và quy tắc của phương Tây vào chương trình học địa phương. Nghiên cứu cho thấy rằng việc các trường đại học ở Đông Á và Đông Nam Á tăng cường hợp tác trong khu vực mang đến cơ hội đặc biệt để phi thực dân hóa giáo dục đại học toàn cầu. Sự hợp tác này công nhận và thách thức sự thống trị của phương Tây, đề cao giá trị của các hệ thống tri thức châu Á, do đó tạo cơ hội để tăng cường sự đa dạng tri thức trong hệ thống tri thức toàn cầu. Tuy nhiên, các cuộc thảo luận về hợp tác khu vực vẫn còn bị ảnh hưởng bởi chế độ thuộc địa tồn tại lâu dài, khi mà nhận thức rằng các đối tác phương Tây vượt trội hơn các đối tác trong khu vực vẫn còn đó và các trường đại học thường tin rằng hợp tác với các trường ở phương Tây mới là “tham gia toàn cầu”.
Hợp tác khu vực ở Đông Á và Đông Nam Á như một chuyển đổi phi thực dân
Hợp tác khu vực thể hiện một sự chuyển đổi phi thực dân ở chỗ châu Á đang trở thành một khu vực được ưa chuộng để hợp tác học thuật, thách thức xu hướng ưu tiên hợp tác với các trường ở phương Tây đã tồn tại lâu nay. Ví dụ, ở Nhật Bản, mặc dù Mỹ và châu Âu vẫn là điểm đến phổ biến cho sinh viên du học, nhưng một lượng đáng kể sinh viên Nhật Bản hiện muốn đến châu Á vì khu vực này được xem là năng động. Rõ ràng hơn, biểu hiện của sự chuyển đổi phi thực dân nằm ở lý do tại sao hợp tác khu vực lại quan trọng đối với các trường đại học ở Đông Á và Đông Nam Á. Nghiên cứu cho thấy rằng hợp tác khu vực một phần được thúc đẩy bởi nhận thức rằng sự đa dạng văn hóa và tri thức trong khu vực đóng góp vào việc học tập của sinh viên. Ở Trung Quốc, các lãnh đạo trường đại học lo ngại rằng phần lớn sinh viên chỉ thích học ở các nước phương Tây, điều này có thể khiến sinh viên có cái nhìn hạn hẹp về thế giới. Để khắc phục, một số trường đại học ở Trung Quốc khuyến khích sinh viên học tập ở châu Á và coi trọng sự đa dạng văn hóa trong khu vực, đôi khi thông qua việc cấp học bổng. Điều này cho thấy một sự chuyển đổi phi thực dân, nơi việc học tập trong và về châu Á ngày càng được xem là có giá trị, khẳng định giá trị của các nền văn hóa và tri thức không thuộc phương Tây.
Tương tự, nghiên cứu cho thấy có sự công nhận ngày càng tăng giữa các trường đại học ở Đông Á và Đông Nam Á, cho rằng các truyền thống tri thức từ châu Á có thể đóng góp vào sự đa dạng tri thức trong hệ thống tri thức toàn cầu vốn lấy phương Tây làm trung tâm. Ví dụ như các trường đại học Nhật Bản từ lâu đã kết hợp tri thức truyền thống Nhật Bản với tri thức phương Tây, điều này mang lại giá trị cho hệ thống tri thức toàn cầu. Hơn nữa, có sự công nhận rằng kiến thức chuyên môn và tri thức thu được từ các đối tác trong khu vực có thể áp dụng cho bối cảnh địa phương của các trường đại học tốt hơn so với tri thức học được từ các trường đại học phương Tây.
Về bản chất, hợp tác khu vực ở Đông Á và Đông Nam Á thể hiện một sự chuyển đổi phi thực dân bằng cách công nhận châu Á là một khu vực năng động cho hợp tác học thuật và đề cao sự đa dạng văn hóa và tri thức của nó. Sự công nhận và coi trọng ngày càng tăng này đối với những đóng góp của châu Á vào hệ thống tri thức toàn cầu đang thách thức sự thống trị của phương Tây trong giáo dục đại học toàn cầu.
Chế độ thuộc địa ăn sâu trong giáo dục đại học toàn cầu
Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy vẫn còn nhận thức rằng hợp tác khu vực kém quan trọng hơn so với hợp tác với các đối tác phương Tây. Ví dụ, ở Việt Nam, một số lãnh đạo trường đại học xem hợp tác khu vực là một cách tiếp cận quốc tế hóa dễ dàng và thuận tiện hơn, nhưng mục tiêu cuối cùng của họ là xây dựng sự hiện diện toàn cầu bằng cách hợp tác với các trường đại học ở các nước châu Âu hoặc Bắc Mỹ. Điều đáng nói là các trường đại học châu Phi và châu Mỹ Latinh không được nhắc đến khi nói về những định hướng toàn cầu này. Có một xu hướng tương tự giữa các trường đại học ở Thái Lan trong việc ưu tiên hợp tác với các trường ở phương Tây, mặc dù các trường đại học trong khu vực, chẳng hạn như ở Indonesia hoặc Malaysia, lại sở hữu kiến thức chuyên môn mà họ đang tìm kiếm.
Hơn nữa, có một nhận thức rằng châu Á là một khối thống nhất, cho thấy sự thiếu đa dạng trong khu vực khiến nó kém hấp dẫn hơn so với hợp tác với các trường đại học ngoài châu Á, vốn được cho là mang lại nhiều sự đa dạng hơn và có thể đưa ra giải pháp cho các vấn đề của châu Á. Việc ưu tiên hợp tác với các trường ở phương Tây, thay vì các trường đại học trong khu vực của họ (ở châu Á, châu Phi, hoặc châu Mỹ Latinh), cho thấy sự thống trị của phương Tây đã ăn sâu vào giáo dục đại học toàn cầu và thật không may lại còn được củng cố bởi chính những người ở các nước không thuộc phương Tây.
Nghiên cứu chỉ ra rằng ngay cả ở Nhật Bản, một quốc gia theo truyền thống được xem là một phần của Bắc bán cầu, một số trường đại học cũng đặt mục tiêu được các trường đại học ở phương Tây công nhận nhiều hơn thông qua việc tham gia vào các liên minh khu vực. Mặc dù hợp tác với các trường đại học phương Tây là có giá trị và bản thân nó không có vấn đề gì, nhưng nhu cầu được các trường đại học phương Tây công nhận ngụ ý một sự mất cân bằng quyền lực đặt các nước phương Tây vào vị trí trung tâm.
Hơn nữa, lịch sử đế quốc và các mối quan hệ quyền lực hiện tại trong khu vực Đông và Đông Nam Á có nguy cơ tạo ra các hình thức chế độ thuộc địa mới. Ví dụ, nghiên cứu cho thấy các lãnh đạo trường đại học Nhật Bản công nhận lịch sử chiến tranh và thuộc địa hóa của Nhật Bản trong khu vực và nhấn mạnh trách nhiệm của các trường đại học Nhật Bản trong việc đóng góp vào một tương lai thịnh vượng cho Đông Nam Á. Các lãnh đạo trường đại học Nhật Bản coi hợp tác khu vực với các trường đại học Đông Nam Á là một cách quan trọng để giải quyết những vấn đề do lịch sử để lại. Một ví dụ khác là việc các trường đại học Trung Quốc tham gia vào các sáng kiến nâng cao năng lực giáo dục ở các nước Đông Nam Á. Các trường đại học Trung Quốc hoặc Nhật Bản ngụ ý vai trò dẫn đầu của họ trong quan hệ với các trường đại học ở Đông Nam Á, phản ánh vị thế thống trị của hai quốc gia này trong khu vực. Mặc dù những sáng kiến này có ý tốt, nhưng các mối quan hệ quyền lực nội bộ khu vực, nếu bị bỏ qua, có thể có nguy cơ tạo ra các hình thức chế độ thuộc địa mới, trong đó các truyền thống tri thức của Trung Quốc hoặc Nhật Bản có thể trở nên thống trị và được coi là chuẩn mực trong khu vực, làm lu mờ các truyền thống tri thức địa phương quan trọng khác.
Con đường phía trước
Tóm lại, nghiên cứu cho thấy có sự công nhận ngày càng tăng về sự thống trị của phương Tây trong giáo dục đại học toàn cầu và những nỗ lực có chủ ý nhằm làm nổi bật sự đa dạng văn hóa và tri thức của Đông Á và Đông Nam Á, cũng như những đóng góp của khu vực vào hệ thống tri thức toàn cầu. Những điều này thể hiện hy vọng về việc phi thực dân hóa giáo dục đại học toàn cầu; nghĩa là, chúng thể hiện hy vọng nuôi dưỡng sự công nhận và coi trọng các cách sống và các loại tri thức đa dạng. Tuy nhiên, dường như vẫn tồn tại những rào cản đối với việc phi thực dân hóa giáo dục đại học toàn cầu, đặc biệt là do chế độ thuộc địa đã ăn sâu. Hơn nữa, các mối quan hệ quyền lực nội bộ khu vực ở Đông Á và Đông Nam Á có thể tạo ra các hình thức chế độ thuộc địa mới nếu chúng không được xem xét và giải quyết một cách cẩn trọng.
Vì vậy, nhu cầu cấp thiết là phải tích cực thực hiện việc phi thực dân hóa trong giáo dục đại học và các lĩnh vực khác. Mặc dù điều quan trọng là các cá nhân và tổ chức ở các nước phương Tây phải ủng hộ và tham gia vào các nỗ lực phi thực dân hóa, nhưng điều quan trọng không kém là những người ở các nước không thuộc phương Tây phải đón nhận và khẳng định giá trị vốn có của các hệ thống tri thức khác nhau, bao gồm cả của chính họ và sự đóng góp bình đẳng vào giáo dục đại học toàn cầu. Điều này đòi hỏi phải thừa nhận các truyền thống phi phương Tây thường bị gạt ra lề hoặc bị coi là kém giá trị, không phải vì chúng thiếu giá trị thực sự, mà là hậu quả của chủ nghĩa thực dân trong lịch sử và chế độ thuộc địa kiểu mới vẫn đang diễn ra. Do đó, điều quan trọng là tất cả những người tham gia vào giáo dục đại học toàn cầu phải suy ngẫm về những giả định nền tảng trong công việc, đặc biệt là giải quyết sự tồn tại của chế độ thuộc địa. Cụ thể, điều quan trọng là xây dựng cả các mối quan hệ đối tác trong khu vực và trên toàn cầu dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và tôn trọng các cách sống và các loại tri thức đa dạng.