Qiang Zha
Qiang Zha là Phó Giáo sư tại Khoa Giáo dục, Đại học York, Canada. Email: qzha@edu.yorku.ca.
Chính phủ Trung Quốc gần đây đã đưa ra một số sáng kiến tập trung vào việc cải thiện hoạt động giảng dạy và nâng kết quả học tập của các trường đại học. Họ đặt mục tiêu đào tạo nhân tài chất lượng cao một cách độc lập, điều này rất quan trọng đối với mục tiêu phát triển quốc gia lâu dài của Trung Quốc. Tuy nhiên, những sáng kiến này không phải là không có những thách thức và cạm bẫy.
Trong hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã hỗ trợ mạnh mẽ các trường đại học nhằm thúc đẩy hiệu suất và đầu ra nghiên cứu. Kết quả là việc tài trợ các nghiên cứu của các trường đại học được ưu tiên. Chiến lược này đã đưa Trung Quốc trở thành nhà sản xuất bài báo nghiên cứu hàng đầu thế giới về khoa học và công nghệ, vượt qua Hoa Kỳ vào khoảng năm 2018. Bảng xếp hạng hàng năm của Chỉ số tự nhiên (Nature Index) xếp hạng các trường đại học trên khắp thế giới theo những đóng góp của họ cho các tạp chí khoa học tự nhiên và y tế – khoa học, được theo dõi bởi cơ sở dữ liệu Chỉ số tự nhiên. Năm 2024, Chỉ số tự nhiên liệt kê bảy trường đại học Trung Quốc trong top 10 (so với chỉ một trường đại học Hoa Kỳ) và 38 trường đại học Trung Quốc trong top 100 (so với 35 tổ chức đối tác của Hoa Kỳ). Đổi lại, các trường đại học Trung Quốc đã hưởng lợi rất nhiều từ những kết quả như vậy về mặt nâng cao vị trí xếp hạng toàn cầu của họ. Tuy nhiên, chiến thắng như vậy không phải là không có trở ngại – chủ yếu là phải trả giá bằng việc giảng dạy và học tập, hoặc việc đào tạo sinh viên tại các trường đại học Trung Quốc, vì sự chú ý và nguồn lực đã ưu tiên rất nhiều cho các hoạt động nghiên cứu.
Ví dụ, Chính phủ Trung Quốc đã khởi động và tài trợ cho nhiều chương trình nhân tài toàn cầu để tiếp thêm năng lượng cho động lực nghiên cứu của các trường đại học. Trong số đó, nổi tiếng nhất là Chương trình Ngàn nhân tài; những chương trình khác bao gồm chương trình Giải thưởng Học giả Trường Giang, chương trình Xuân Hồi, Quỹ khoa học Quốc gia dành cho các Nhà khoa học trẻ xuất sắc và chương trình Tuyển dụng Chuyên gia Nước ngoài Cao cấp, v.v… Những chương trình như vậy thể hiện ý chí và quyết tâm rõ ràng của nhà nước. Chúng không chỉ cung cấp hiệu quả đội ngũ nghiên cứu cao cấp mà còn về cơ bản hướng ưu tiên đến khía cạnh nghiên cứu của các trường đại học.
Cho đến gần đây, gần như không có nhiều sáng kiến tương đương hướng đến khía cạnh giáo dục của các trường đại học. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi ngay cả sinh viên trong các trường đại học hàng đầu cũng phàn nàn về trải nghiệm của họ. Nhiều người nhận thấy rằng nhiều sinh viên dường như thiếu động lực học tập, chọn dành thời gian trong phòng hơn là đến lớp. Trong khi đó, các giáo viên bị cáo buộc chỉ tập trung vào các hoạt động nghiên cứu của mình, sử dụng lại các bài giảng cũ và không cập nhật chương trình giảng dạy hoặc phương pháp sư phạm của họ. Việc học tập của sinh viên đã bị ảnh hưởng bởi những xu hướng này. Ví dụ, một nghiên cứu so sánh kỹ năng STEM của sinh viên Trung Quốc với sinh viên đồng lứa từ Ấn Độ, Nga và Hoa Kỳ cho thấy sinh viên đại học Trung Quốc thể hiện mức độ kỹ năng giảm dần trong bốn năm và cho rằng kết quả đáng tiếc này là do sự thiếu sót của trường trong chương trình giảng dạy và thiết kế chương trình. Để giải quyết những lo ngại này, những năm gần đây đã chứng kiến nỗ lực mới và rõ ràng của Trung Quốc nhằm nâng cao khía cạnh giáo dục của các trường đại học.
Các sáng kiến cấp nhà nước tập trung vào lĩnh vực giáo dục
Ba sáng kiến lớn đã được đưa ra trong những năm gần đây ở cấp nhà nước, liên quan trực tiếp hoặc dành riêng cho khía cạnh giáo dục của các trường đại học Trung Quốc. Một là “Kế hoạch Bồi dưỡng Sinh viên xuất sắc các môn học cơ bản” (thường được gọi là “Kế hoạch Zhumulangma”), được chính thức khởi động vào năm 2020 trên cơ sở chương trình thí điểm những năm 2010. Kế hoạch này được tài trợ bởi các khoản phân bổ dành riêng trực tiếp từ chính quyền trung ương, nhằm mục đích tạo ra 260 “cơ sở nuôi dưỡng” trong các trường đại học được chọn lọc ở Trung Quốc, bao gồm 190 trường trong lĩnh vực STEM, 10 trường lĩnh vực khoa học y tế và 60 trường trong lĩnh vực nhân văn và khoa học xã hội. Hiện tại, 21 trường đại học hàng đầu Trung Quốc đã được chọn để triển khai các cơ chế như vậy. Sáng kiến thứ hai là “Chương trình Thí điểm Cải cách Tuyển sinh các môn học cơ bản” (viết tắt là “Tăng cường Chương trình Cơ bản”), được thiết kế để tuyển dụng và nuôi dưỡng những sinh viên có thành tích cao, có tiềm năng đóng góp cho các mục tiêu chiến lược về phát triển quốc gia của Trung Quốc. Chương trình này hiện đang được triển khai tại 39 trường đại học hàng đầu (thuộc “Dự án Lớp Nhất Kép”) trong nước. Sáng kiến gần đây nhất, có tên mã là “Chương trình 101”, đại diện cho cách tiếp cận mang tính hệ thống của Trung Quốc nhằm nâng cao và chuyển đổi giáo dục đại học. Được Bộ Giáo dục khởi động vào năm 2021, sáng kiến được thiết kế để giải quyết tất cả các thành phần thiết yếu của giảng dạy và học tập bậc đại học: chương trình giảng dạy, sách giáo khoa, đội ngũ giảng dạy và nền tảng thực hành tích hợp công nghiệp – nghiên cứu – giáo dục trong các môn học chính, cam kết nâng chúng lên tiêu chuẩn “hạng nhất”. Hiện có 78 trường đại học tham gia “Chương trình 101” và đảm nhận các nhiệm vụ “hạng nhất” trong 10 lĩnh vực chính: khoa học máy tính, toán học, vật lý, hóa học, sinh học, y học cơ sở, y học cổ truyền Trung Quốc, kinh tế học, triết học và trí tuệ nhân tạo.
Đằng sau những sáng kiến và nỗ lực này là nhu cầu cấp thiết và mục tiêu đầy tham vọng của Trung Quốc trong việc nuôi dưỡng nhân tài xuất sắc phục vụ phát triển đất nước. Một Thứ trưởng Bộ Giáo dục đã nêu rõ 3 loại hình nhân tài như vậy. Loại thứ nhất là nhân tài nghiên cứu hàng đầu trong các lĩnh vực cơ bản, những người có thể tạo ra những khám phá đột phá trong nghiên cứu cơ bản. Loại thứ hai là nhân tài chiến lược nổi bật trong các lĩnh vực cấp thiết, những người có thể kết nối thực tiễn với các mặt trận phát triển công nghệ và công nghiệp. Loại thứ ba là nhân tài khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, những người có thể làm cầu nối kết hợp nguồn lực đổi mới sáng tạo từ trường đại học với nhu cầu cơ bản của phát triển công nghiệp địa phương và thúc đẩy chuyển đổi, thương mại hóa các thành tựu khoa học công nghệ. Nếu những sáng kiến này được hoàn thành, Trung Quốc sẽ có được một chuỗi nhân tài toàn diện, có khả năng “đi từ 0 đến 1” (khơi gợi và khám phá những đổi mới sáng tạo mới) và “từ 1 đến N” (mở rộng quy mô và tối ưu hóa những đổi mới đã được kiểm chứng). Khi đạt được những mục tiêu này, Trung Quốc sẽ có thể xây dựng hệ thống tri thức và đổi mới sáng tạo độc lập, điều này được cho là có ý nghĩa quan trọng hơn nhiều so với vị trí dẫn đầu hiện tại của nước này trong cuộc đua xuất bản bài báo toàn cầu.
Thảo luận sơ bộ về ý nghĩa và nhược điểm
Việc Trung Quốc chuyển hướng sang tăng cường khía cạnh giáo dục trong các trường đại học mang ý nghĩa sâu rộng, đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị gia tăng với Hoa Kỳ và các đồng minh. Mối quan hệ Trung – Mỹ đang phát triển theo hướng “đối kháng thù địch”, kéo theo một quá trình lâu dài kìm hãm lẫn nhau – được quyết định bởi quy mô và sức mạnh to lớn của hai quốc gia này. Trong một cuộc cạnh tranh đối kháng như vậy, lực lượng và sự phát triển của nhân tài và đổi mới sáng tạo sẽ nổi bật như một tác nhân quan trọng – nếu không muốn nói là quyết định – do bản chất và bản thể của nền kinh tế dựa trên tri thức hiện nay. Theo logic này, những sáng kiến gần đây của Trung Quốc tập trung vào việc đào tạo sinh viên trong các trường đại học dường như mang tính chiến lược và tầm nhìn xa, nhắm vào các mục tiêu và lợi ích lâu dài. Điều này cũng rất cần thiết, vì thế giới có thể đang đạt đến đỉnh điểm của toàn cầu hóa, trong đó hàng trăm nghìn sinh viên Trung Quốc đã được đào tạo và giáo dục nâng cao tại các trường đại học phương Tây (đặc biệt là các trường đại học Bắc Mỹ) và sau đó trở về phục vụ sự phát triển của Trung Quốc. Nếu sự đối kháng giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ tiếp tục, xu hướng này có thể sẽ không tiếp tục. Nói một cách ngắn gọn, Trung Quốc cần xây dựng một cách thức độc lập và hiệu quả để đảm bảo việc nuôi dưỡng nhân tài, đặc biệt là sinh viên và học giả có trình độ cao, những người có khả năng mở ra những đổi mới mang tính đột phá.
Với những nhu cầu này, không có gì ngạc nhiên khi các sáng kiến giáo dục hiện tại nghiêng về các lĩnh vực STEM, hứa hẹn tạo ra những đổi mới sáng tạo mới và/ hoặc mang tính đột phá cho chuyển đổi công nghệ và thương mại hóa tri thức. Tuy nhiên, cách tiếp cận tập trung như vậy làm dấy lên lo ngại về việc trau dồi tư duy phản biện cho sinh viên có năng lực cao, một quá trình được hưởng lợi từ việc tiếp xúc với khoa học nhân văn và xã hội. Cùng nghiên cứu được đề cập trước đó cũng đã so sánh tư duy phản biện giữa sinh viên đại học Mỹ, Trung Quốc, Ấn Độ và Nga, và nhận thấy rằng sinh viên Trung Quốc cho thấy sự suy giảm đáng kể về mức độ tư duy phản biện trong bốn năm: 17% đối với sinh viên đại học hàng đầu và 68% đối với sinh viên ở các trường đại học khác. Tư duy phản biện và kỹ năng đổi mới sáng tạo có thể không hoàn toàn trùng lặp, nhưng ít nhất chúng bổ sung cho nhau. Thực tế về mức độ tư duy phản biện giảm sút ở sinh viên đại học Trung Quốc có thể đặt ra một thách thức quan trọng đối với việc nuôi dưỡng nhân tài có năng lực cao trong các trường đại học, bất chấp những hứa hẹn của các cải cách gần đây.