Kyle Long là giám đốc sáng lập Sáng kiến Nghiên cứu Giáo dục Đại học Toàn cầu của Mỹ. Email: longkylea@gmail.com. Saiansha Panangipalli là nhân viên quan hệ văn hóa của Cao ủy Anh tại Ấn Độ. Email: saiansha@yahoo.co.in.
Tóm tắt: Có quan niệm về các cơ sở đại học của Hoa Kỳ ở nước ngoài cho rằng chúng thường là những dự án phù phiếm dành cho chủ nghĩa quốc tế. Quan điểm này tỏ ra không toàn diện trên thực tế. Một cơ sở dữ liệu mới do Sáng kiến Giáo dục Đại học Toàn cầu của Mỹ cho thấy một bối cảnh đa dạng và toàn diện hơn những gì người ta thường hiểu. Họ hầu như không được biết đến ở Hoa Kỳ nhưng đã mở rộng dấu ấn giáo dục đại học của Hoa Kỳ tới 80 quốc gia trên thế giới.
Khi truyền thông có thỉnh thoảng đưa tin về các trường quốc tế Mỹ ở nước ngoài thì thường chỉ giới hạn về một số ít trường. Tiêu đề báo chí thường đề cập là đầu tư mạo hiểm ở nước ngoài do các trường có nguồn lực tốt như Đại học Duke, Đại học New York và Đại học Yale. Tin tức thường là tiêu cực như về quyền tự do học thuật, vi phạm luật lao động hoặc trường sắp đóng cửa. Việc tạo ra cái nhìn hạn chế của công chúng vào nhóm nhỏ các trường này gây ấn tượng rằng giáo dục đại học ở nước ngoài của Hoa Kỳ có tính phù phiếm và giới hạn trong phạm vi ưu tú.
Quan điểm này không phản ánh thực tế là hàng trăm tổ chức giáo dục ít được biết đến đã mang cơ hội tiếp cận giáo dục đại học Hoa Kỳ ra nước ngoài. Ngoài các phân hiệu, có các trường-viện độc lập, các campus vi mô và các trường đại học liên kết quốc tế triển khai đào tạo cấp bằng của Hoa Kỳ. Chúng khác nhau về quy mô, dịch vụ và chất lượng. Trên thực tế, bối cảnh giáo dục đại học Hoa Kỳ ở nước ngoài cũng đa dạng như ở trong nước. Hiệp hội các trường đại học Hoa Kỳ có 65 trường đại học nghiên cứu hàng đầu quốc gia, và chỉ chiếm 1% số cơ sở giáo dục đại học tại Hoa Kỳ. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi phần lớn các cơ sở giáo dục đại học của Hoa Kỳ ở nước ngoài cũng có tính đồng dạng theo tỷ lệ này với mẫu quốc.
Bộ dữ liệu GAHE cho thấy có 262 tổ chức giáo dục đại học Mỹ đang hoạt động ở 80 quốc gia
Giáo dục đại học Hoa Kỳ toàn cầu
Dễ nhận thấy, một số phân hiệu đại học có thương hiệu nổi tiếng đang đào tạo hàng nghìn sinh viên trên toàn cầu. Nhưng chính các trường-viện ở hạng thấp hơn mới thực sự mở rộng sự hiện diện toàn cầu của Hoa Kỳ. Ví dụ, Đại học Webster, một trường tư thục khu vực ở Missouri, điều hành 10 cơ sở quốc tế ở châu Phi, châu Á, Caribe và châu Âu. Đại học Quốc tế Mỹ-Bangladesh có hơn 10 ngàn sinh viên theo học nhiều chương trình khác nhau. Đại học SUNY Empire State đào tạo các chương trình đại học chính quy trong khuôn viên của nửa tá trường-viện ở nước ngoài, chủ yếu quanh Địa Trung Hải. Những trường đại học này có thể không đạt đẳng cấp thế giới, nhưng họ đã đưa được các chương trình đào tạo đại học Hoa Kỳ ra thế giới.
Một bộ dữ liệu mới được Sáng kiến nghiên cứu Giáo dục Đại học Toàn cầu của Mỹ (GAHE – Global American Higher Education) công bố, cho phép các bên quan tâm khám phá toàn bộ về các trường-viện này. Bộ dữ liệu GAHE cho thấy có 262 tổ chức giáo dục đại học Mỹ đang hoạt động ở 80 quốc gia. Họ tuyển được khoảng 720 ngàn sinh viên. Để so sánh, khoảng 6000 cơ sở giáo dục đại học ở Hoa Kỳ tuyển được 760 ngàn sinh viên quốc tế. Bài viết này mang thêm sắc thái vào bức tranh định kiến về các trường đại học Hoa Kỳ ở nước ngoài, bằng cách nêu bật một số tổ chức tiêu biểu trong số đó.
Những trường-viện độc lập
Trong hai thập kỷ qua, mô hình phân hiệu đã trở thành tiêu chuẩn công nghiệp cho các tổ chức giáo dục đại học quốc tế. Trước đó, mô hình phổ biến là trường-viện độc lập. Trường đại học độc lập sớm nhất được thành lập bởi các nhà truyền giáo người Mỹ ở đông Địa Trung Hải và Trung Quốc trong nửa sau thế kỷ 19. Giống như đại học đi đầu American University of Beirut (thành lập năm 1866), các trường đại học độc lập của Hoa Kỳ ở nước ngoài thường sử dụng “American” hoặc “United States” trong tên của họ. Ngay cả sau thời kỳ truyền giáo, mô hình này vẫn tồn tại. Trong những năm 1960, các doanh nhân Mỹ bắt đầu thành lập các trường đại học Mỹ độc lập ở Tây Âu. Sau chiến tranh lạnh, chúng bắt đầu xuất hiện ở Đông Âu và Trung Á và sau đó trở thành mô hình thịnh hành.
Nhưng các trường đại học độc lập không phải lúc nào cũng được tín nhiệm với lý do là người đi đầu. Ví dụ, Weill Cornell Medicine ở Qatar (thành lập 2001), hợp tác giữa Đại học Cornell và Quỹ Qatar, tự cho là trường y khoa đầu tiên của Mỹ bên ngoài Hoa Kỳ. Mặc dù đây có thể là phân hiệu đầu tiên của một trường đại học Hoa Kỳ đào tạo ngành y ở nước ngoài, nhưng sự xuất hiện lần đầu chương trình đào tạo y khoa của Hoa Kỳ bên ngoài Hoa Kỳ lại thuộc về Trường Y thuộc Đại học Caribe của Hoa Kỳ bắt đầu việc đào tạo này vào năm 1980, và hoạt động liên tục trong khu vực từ giữa những năm 1990, mở đầu trào lưu cho các trường đi theo.
Đại học Caribe là tiêu biểu cho các trường đại học độc lập của Hoa Kỳ ở nước ngoài, với những lo ngại chính đáng về chất lượng. Chẳng hạn, tại các trường y của Hoa Kỳ ở Caribe, tỷ lệ nội trú thấp và gánh nặng nợ nần của sinh viên cao. Điều này cũng đúng với tình hình chất lượng của các trường-viện độc lập trên toàn cầu: chỉ một phần ba được kiểm định ở Hoa Kỳ. Một nửa trong số họ hoạt động vì lợi nhuận. Tỷ lệ đó thậm chí còn cao hơn ở Caribe, khiến Thượng viện Hoa Kỳ đưa ra luật nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình của các trường y nước ngoài đối với việc sinh viên được liên bang hỗ trợ tài chính.
Dù sao thì các chi nhánh Caribe đã đào tạo thành công một lượng lớn bác sĩ da màu làm việc ở Hoa Kỳ. Các trường đại học độc lập của Hoa Kỳ có truyền thống lâu đời giáo dục những nhóm dân cư bị thiệt thòi, mặc dù vai trò là nơi trú ẩn cho những người bị bỏ lại thường không được báo trước. Ví dụ, American University of Iraq, Sulaimani, đã tuyển hàng trăm sinh viên tị nạn từ Syria và Afganistan trong những năm gần đây. Mô hình giáo dục đại học độc lập của Hoa Kỳ thường được áp dụng ở những nơi không có phân hiệu. Một cách trớ trêu, American University Kyiv đã khai trương vào mùa thu năm 2022.
Phân hiệu đại học
Trong số các phân hiệu quốc tế của Hoa Kỳ đang hoạt động ở nước ngoài, chỉ có 6 trong số 67 trường được US News xếp hạng trong top 50. The City University of Seattle vận hành 5 phân hiệu quốc tế cấp bằng: 1 ở Hy Lạp và 4 ở Canada. Bang Washington cũng là nơi đặt trụ sở DigiPen Institute of Technology, một tổ chức vì lợi nhuận, nơi điều hành các phân hiệu cấp bằng ở Singapore và Tây Ban Nha. Thông thường các phân hiệu là chi nhánh của tổ chức trường-viện vì lợi nhuận. Tỷ lệ các phân hiệu quốc tế của Hoa Kỳ thuộc về các tổ chức vì lợi nhuận cao hơn tỷ lệ các phân hiệu liên kết với các tổ chức được US News xếp hạng trong top 50.
Các phân hiệu tập trung thu hút được nhiều sự chú ý. Ví dụ, Qatar’s Education City và
Incheon Global Campus ở Hàn Quốc, mỗi nơi đều có nhiều trường đại học nổi tiếng của Hoa Kỳ. Nhưng dữ liệu cho thấy mô hình phân hiệu của Hoa Kỳ thường hoạt động biệt lập ở Bắc Mỹ hoặc châu Âu, chứ không phải ở Trung Đông hay Đông Nam Á. Một số nhà phê bình coi sự bùng nổ phân hiệu không gì khác hơn là một cuộc đua kiếm tiền. Thật vậy, các trường-viện ở Qatar nhận được trợ cấp đáng kể từ nước sở tại. Nhưng hầu hết các phân hiệu đại học Hoa Kỳ đều phụ thuộc vào học phí từ số lượng tuyển sinh khiêm tốn, thường dưới một nghìn sinh viên.
Các trường nhỏ, không liên kết, thường đào tạo các chương trình cử nhân chuyên ngành. Trường Âm nhạc Berklee (ở Tây Ban Nha), Đại học Hàng không Embry–Riddle (ở Đức), Trường Thiết kế Parsons (ở Pháp) là điển hình. Giáo dục đại học khai phóng mang đặc thù Mỹ ít chi nhánh ở nước ngoài, có hiện diện ở Đức (Cao đẳng Bard), Hungary (Cao đẳng McDaniel) và Tây Ban Nha (Đại học Saint Louis). Mô hình này giúp cho giáo dục đại học Hoa Kỳ – bao gồm các chương trình khoa học xã hội và nhân văn – thâm nhập vào những môi trường thù địch với các giá trị dân chủ. Khi chế độ nhà nước Hungary buộc Đại học Trung Âu độc lập phải dời đi vào năm 2018, trường McDaniel vẫn tồn tại vì đây là chi nhánh của một trường có chương trình đại học Hoa Kỳ.
Bộ dữ liệu GAHE cũng có những thông tin về các campus vi mô ở nước ngoài, các đại học liên kết quốc tế và các trường-viện nước ngoài được kiểm định tại Hoa Kỳ. Những thông tin này nhấn mạnh thêm năng lực, sự đa dạng và tính chất mù mờ – không mạch lạc về giáo dục đại học toàn cầu của Mỹ.