Rui Yang
Rui Yang là giáo sư và phó trưởng khoa phụ trách hợp tác quốc tế và liên quốc gia tại Khoa Giáo dục, Đại học Hong Kong, đường Pokfulam, Hong Kong. E-mail: yangrui@hku.hk.
Sự phát triển gần đây của các đại học Đông Á đang gây ấn tượng mạnh cho giới học thuật. Bức tranh này có phần là thực nhưng cũng có cả phần chỉ là do cảm giác. Việc truyền thông và các nghiên cứu thổi phồng cần phải được xem xét lại. Nghi vấn về tiềm năng thực sự của các đại học Đông Á, cũng như việc liệu họ có thể đánh đổ được vị trí dẫn đầu của các đại học Đông Âu vẫn còn nguyên đó. Trong khi thừa nhận về tác động của sự phát triển toàn diện của xã hội Đông Á đối với giáo dục đại học vài thập kỷ qua, chúng ta cũng không nên bỏ qua thách thức mà khu vực này vẫn đang phải đối mặt. Một vấn đề cốt lõi nhưng dường như không được xem xét đầy đủ là liệu thành công trong tương lai có thể sẽ bị hủy hoại như thế nào với nền văn hoá học thuật mang nặng tính địa phương ngày hôm nay.
Một nền văn hoá mang nặng tính địa phương
Văn hoá học thuật liên quan đến thái độ, niềm tin và giá trị của cộng đồng học thuật đối với các khía cạnh khác nhau trong công việc. Nó tác động mạnh mẽ đến việc cộng đồng học thuật sẽ làm cái gì, làm như thế nào và ai tham gia. Nó cũng tác động đến việc ra quyết định, các hành động và mối giao tiếp theo cả phương diện thực tế lẫn tính hình thức. Một loạt đặc tính thường được dùng để mô tả về văn hoá học thuật tại các trường đại học Đông Á như liêm chính, đạo đức, vi phạm chuẩn mực và thậm chí cả tham nhũng. Văn hoá học thuật cũng đã được chỉ ra là lực cản lớn khiến cho giáo dục đại học Đông Á khó đạt được đẳng cấp quốc tế. Văn hoá tham nhũng ảnh hưởng xấu đến vị trí của các trường trong cộng đồng học thuật. Một nền văn hoá học thuật, vốn dựa trên các giá trị về tài năng, tự do tranh biện và cạnh tranh – nói chung đang vắng bóng tại Đông Á.
Trải dài khắp khu vực, tính không trung thực trong học thuật đã trở thành một vấn đề lớn, từ sinh viên cho đến nhà khoa học cũng đều gian lận. Các nghiên cứu cũng chỉ ra mức độ không trung thực đang leo thang tại Hong Kong và Đài Loan. Nam Hàn thì được gán cho tên gọi “Cộng hòa Đạo văn”. Có lẽ thành công hơn bất kỳ đâu trên thế giới là Nhật Bản, nước đã phát triển được một hệ thống với những chuẩn mực phù hợp. Nhưng ngay cả Nhật Bản cũng không thoát khỏi nạn gian lận trong học thuật. Những năm 2000 đã chứng kiến nhiều vụ việc vi phạm chuẩn mực học thuật bị lôi ra ánh sáng. Gần đây, sự kiện Haruko Obokata ngụy tạo dữ liệu, chỉnh sửa hình ảnh và đạo văn đã làm choáng váng cả nền học thuật Nhật Bản.
Vi phạm chuẩn mực học thuật đặc biệt nghiêm trọng ở Trung Quốc. Từ những năm 1990, nền văn hoá học thuật đã ngày càng trở nên sa sút và văn hoá này đã xâm nhập nhanh chóng vào lĩnh vực giáo dục đại học, từ trường ở cấp địa phương cho đến các trường hàng đầu ở cấp quốc gia, không chừa bất kỳ mảng hoạt động nào. Phản chiếu thực trạng rộng hơn trong toàn xã hội, vấn đề này liên đới tới sinh viên, giáo sư, nhà khoa học và cả lãnh đạo đại học. Với nền giáo dục đại học Trung Quốc, việc được thăng tiến trong chính phủ hoặc đảm nhiệm các vị trí quản lý trong trường đại học sẽ đem lại các lợi ích đáng kể về tài chính, hơn nhiều so với chỉ làm khoa học thực chất. Các học giả Trung Quốc vì vậy ngày càng có xu hướng bị lôi kéo vào việc phấn đấu để lên chức hơn là dành thời gian cho việc nghiên cứu thực thụ.
Hậu quả nặng nề
Dưới ảnh hưởng của văn hoá tham nhũng trong học thuật, các mối quan hệ tương trợ (guanxi) đang ngăn cản sự tự do di chuyển của cán bộ, sinh viên, cũng như hạn chế nguồn lực và phát triển nghề nghiệp của giảng viên. Các quyết định không dựa trên thành tích học thuật mà dựa trên quan hệ cá nhân cũng như thiên vị đối xử. Đạo văn và nguỵ tạo dữ liệu trở nên phổ biến. Các “cây đa, cây đề” chiếm hết các nguồn tài trợ nghiên cứu. Các nhà khoa học thuần tuý thì gần như không có cơ hội gì cả, giới học thuật tìm kiếm những thành công tức thời, vi phạm chuẩn mực đã trở thành chuyện hàng ngày. Văn hoá độc hại này đã tạo nên những hậu quả nghiêm trọng đối với sự phát triển của giáo dục đại học cũng như việc hiện đại hoá chương trình đào tạo trong vùng, đồng thời dẫn đên sự méo mó và không hiệu quả từ từng trường đại học cho đến cả hệ thống. Việc đạo đức bị băng hoại đối với các cá nhân và các trường đã phá huỷ không gian học thuật tại Đông Á, làm ô nhiễm tâm trí của sinh viên. Nó thực sự ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển và thành công của nền khoa học khu vực.
Trải dài khắp khu vực, tính không trung thực trong học thuật đã trở thành một vấn đề lớn, từ sinh viên cho đến nhà khoa học cũng đều gian lận.
Nhằm đối phó với vấn đề không trung thực trong học thuật, cũng phải thấy rằng các chính sách trong giáo dục cũng hướng tới việc ngăn chặn các vi phạm chuẩn mực trong nghiên cứu. Ví dụ, Chính phủ Trung Quốc từ những năm 2000 đã nỗ lực trong việc xây dựng các chuẩn mực học thuật và liêm chính trong nghiên cứu thông qua việc ban hành các tiêu chuẩn, quy định, thành lập các cơ quan đặc biệt, ban hành chính sách, tổ chức diễn đàn và hội thảo quốc gia và tăng cường hợp tác quốc tế. Cùng với sự tăng cường nhận thức về vấn đề này, một số trường đại học tại Đông Á đã thành lập đơn vị chuyên biệt nhằm đối phó với gian lận và tham nhũng học thuật. Chúng ta có thể hy vọng các chính sách mới sẽ đem lại một số dấu hiệu tích cực tức thời, nhưng khi xét đến phạm vi và mức độ nghiêm trọng của vấn đề, sẽ là không thực tế nếu chúng ta cho rằng có thể nhổ tận gốc trong một vài năm sắp tới.
Mặc dù vẫn có một số vụ bê bối, Nhật Bản vẫn khác biệt với các nước hàng xóm trong khu vực về văn hoá học thuật. Điều này lý giải tại sao Nhật vẫn là nước có thành tích tốt nhất trong khu vực, thể hiện qua số lượng 21 giải Nobel không thể cạnh tranh trong khoa học và công nghệ, trong khi các nước xung quanh không có giải nào cho đến tận năm 2014. Cũng phải nhắc lại là các giải Nobel đầu tiên mà Nhật đạt được khi họ đang trong giai đoạn cực kỳ khó khăn. Tương tự, giải thưởng gần nhất và là duy nhất trong lĩnh vực khoa học và công nghệ dành cho nghiên cứu thực hiện trong khu vực tặng cho một nhà khoa học Trung Quốc vào năm 2015. Công trình nghiên cứu được giải gần như là được thực hiện trong giai đoạn 1970, thời kỳ Trung Quốc khó khăn nhất về kinh tế và chịu cô lập về chính trị. Kết quả này rõ ràng không phải là hệ quả của nền văn hoá học thuật Trung Quốc đương đại.
Nhằm đối phó với vấn đề không trung thực trong học thuật, cũng phải thấy rằng các chính sách trong giáo dục cũng hướng tới việc ngăn chặn các vi phạm chuẩn mực trong nghiên cứu.
Kết luận
Văn hoá học thuật là vấn đề lớn. Văn hoá tham nhũng học thuật tại Đông Á ảnh hưởng trực tiếp tới nền giáo dục đại học trong khu vực với những tác động trực tiếp lên mọi hoạt động hàng ngày. Chỉ có Nhật Bản là vẫn giữ được nền văn hoá học thuật tốt. Thật không may mắn, việc xử lý vấn đề mang tính trải rộng và ăn sâu bám rễ vào đời sống xã hội này đã nằm ngoài tầm tay của bản thân hệ thống giáo dục đại học, dù cho thực trạng của nó có khác giữa các nước khác nhau. Nền văn hoá học thuật độc hại này cũng là một cách lý giải khác về thách thức lớn nhất đối với Đông Á: các trường đại học vẫn chưa biết làm sao có thể kết hợp được chuẩn mực giáo dục đại học phương Tây với giá trị truyền thống. Khái niệm về đại học phương Tây dường như mới chỉ được áp dụng một cách hình thức. Sự phát triển của giáo dục đại học Đông Á, về cơ bản dựa trên mối quan hệ giữa văn hóa đại học phương Tây và truyền thống bản địa – mà mối quan hệ đó nói chung chưa được quản lý tốt. ■