Gabriele Marconi
Gabriele Marconi là chuyên gia phân tích tại Vụ Giáo dục và Kỹ năng, Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế (OECD). Email: gabriele.marconi@oecd.org.
Theo thông tin từ dữ liệu UNESCO-OECD-Eurostat thu thập năm 2013, cứ mười học viên ở bậc thạc sĩ hoặc trình độ tương đương thì có một là học viên quốc tế từ các nước OECD, ở bậc tiến sĩ tỷ lệ này tăng lên là một trên bốn. Ở Luxembourg và Thụy Sĩ, học viên quốc tế chiếm hơn một nửa tổng số tuyển sinh bậc tiến sĩ.
Chương trình tiến sĩ và thạc sĩ là những chương trình giáo dục tiên tiến nhất, gồm những nội dung nghiên cứu hiện đại hoặc thực hành chuyên nghiệp. Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức và các cộng đồng tri thức đã khiến hoạt động nghiên cứu và các dịch vụ chuyên nghiệp hàng đầu ngày càng được quốc tế hóa. Do đó, nhiều học viên tìm kiếm cơ hội ra nước ngoài để theo học chương trình thạc sĩ hoặc tiến sĩ, đặc biệt là đến những nước đầu tư nhiều cho nghiên cứu và phát triển (R&D).
Kinh nghiệm quốc tế rất có giá trị đối với các nhà nghiên cứu và các chuyên gia, đến mức Hiệp hội Đại học châu Âu vào năm 2015 đã khuyến cáo “các ứng cử viên tiến sĩ nên tham gia vào các hoạt động nghiên cứu quốc tế”. Những kinh nghiệm này có thể có được thông qua hợp tác quốc tế, hoặc tham gia chương trình học tập một phần hoặc toàn thời gian ở nước ngoài. Học viên quốc tế mang đến cho nước chủ nhà một loạt các lợi ích, ví dụ mạng lưới xã hội và kinh doanh từ nước của họ, học phí và các chi phí khác. Ngoài ra, đặc biệt ở bậc thạc sĩ hoặc tiến sĩ và tương đương, học viên quốc tế có thể đóng góp cho R&D của nước chủ nhà – không chỉ trong thời gian học tập mà cả sau này khi đã trở thành các nhà nghiên cứu hoặc các chuyên gia có trình độ cao. Đặc biệt, học viên tiến sĩ là một thành phần không thể thiếu trong lực lượng cán bộ nghiên cứu của một quốc gia.
Có bao nhiêu học viên bậc thạc sĩ và tiến sĩ đang học tập ở nước ngoài?
Học viên quốc tế chiếm 11% tổng số học viên theo học chương trình thạc sĩ hoặc tương đương tại các nước OECD, gấp hai lần so với bậc cử nhân. Luxembourg có tỷ lệ học viên quốc tế bậc thạc sĩ hoặc tương đương lớn nhất (67%), tiếp theo là Úc (38%), Vương quốc Anh (36%) và Thụy Sĩ (27%).
Trong tất cả các nước OECD, với rất ít ngoại lệ, tỷ lệ học viên quốc tế ở bậc tiến sĩ thậm chí còn cao hơn ở bậc thạc sĩ hoặc tương đương. Một phần tư tổng số học viên bậc tiến sĩ ở các nước OECD là học viên quốc tế. Bên cạnh lý do về những lợi thế sẽ có được khi trở thành những chuyên gia hàng đầu sau khi được đào tạo trong môi trường quốc tế, một vài yếu tố khác có thể giúp giải thích tỷ lệ cao của học viên quốc tế bậc thạc sĩ và tiến sĩ. Ví dụ, một số quốc gia không có các chương trình đào tạo trong các lĩnh vực nghiên cứu cụ thể, hoặc nếu có, những chương trình này không có danh tiếng cao như các chương trình ở nước ngoài trong cùng lĩnh vực. Ngoài ra, học viên theo học các chương trình này thuộc về một nhóm đặc biệt của du học sinh, có nhiều cơ hội đi du lịch và sống ở nước ngoài độc lập với các lựa chọn giáo dục của họ.
Học viên quốc tế bậc thạc sĩ, tiến sĩ học gì?
Gần 60% học viên quốc tế bậc tiến sĩ học các ngành khoa học, kỹ thuật và nông nghiệp. Tỷ lệ này cao hơn nhiều so với học viên tiến sĩ nước sở tại học trong các lĩnh vực này (khoảng 40%), và cũng cao hơn so với tỷ lệ học viên quốc tế ghi danh trong các lĩnh vực này ở bậc thạc sĩ (khoảng 30%). Ở một số nước (Luxembourg, Hà Lan, New Zealand, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ), hơn một nửa số học viên theo học chương trình tiến sĩ khoa học, kỹ thuật hoặc nông nghiệp đến từ nước ngoài. Điều này tạo ra tiềm năng mở rộng nền tảng kỹ năng của lực lượng lao động ở các nước, bởi vì khi học xong, các học viên tiến sĩ có thể ở lại làm việc ở các nước sở tại như các chuyên gia, kỹ thuật viên và các nhà nghiên cứu, tiếp tục hoàn thiện các sáng tạo đổi mới, đem công nghệ và quy trình tổ chức mới vào kinh tế. Theo một số ước tính, ở các nước OECD khoảng một phần tư học viên quốc tế ở lại nước sở tại sau khi tốt nghiệp một chương trình giáo dục bậc cao.
Nước nào gửi học viên đi học bậc thạc sĩ, tiến sĩ? Nước nào tiếp nhận?
Hoa Kỳ chiếm 38% trong tổng số học viên quốc tế theo học chương trình tiến sĩ hoặc tương đương trong các nước OECD. Đây là thị phần lớn nhất, tiếp theo là Vương quốc Anh (13%), Pháp (8%), tiếp đến Úc và Đức (đều là 5%). Ở bậc thạc sĩ, vẫn là năm quốc gia nói trên đứng đầu danh sách, nhưng thị trường ít tập trung hơn: Hoa Kỳ chiếm 21%, trong khi thị phần của Vương quốc Anh (16%), Pháp, Đức (cả hai đều 11%) và Úc (8%) tăng lên.
Về các nước xuất xứ, 23% học viên quốc tế học tập tại các nước OECD đến từ Trung Quốc nhiều hơn bất kỳ nước nào khác, tiếp theo là Ấn Độ (8%) và Đức (4%). Đa số (53%) đến từ châu Á. học viên quốc tế di chuyển trong nội bộ châu Âu chủ yếu học ở bậc thạc sĩ và tiến sĩ (26% học viên quốc tế học tập trong các nước EU21 là đến từ một đất nước EU21 khác), mặc dù ít hơn một chút so với giáo dục đại học nói chung (tỷ lệ này là 30%). Tại Canada và Hoa Kỳ, học viên du học trong khu vực chỉ chiếm một phần nhỏ, khoảng 10% học viên quốc tế ở bậc thạc sĩ và tiến sĩ đến từ Bắc Mỹ hoặc Mỹ Latin.
Nước nào hấp dẫn học viên quốc tế bậc tiến sĩ?
Những nước đầu tư nguồn lực đáng kể vào R&D trong giáo dục đại học dường như là những điểm đến đặc biệt hấp dẫn cho học viên tiến sĩ quốc tế. Ví dụ, trong các nước OECD, Thụy Sĩ có mức chi cao nhất cho R&D tính trên mỗi học viên trong giáo dục đại học (khoảng 13.600 USD), và có số lượng học viên quốc tế ở bậc tiến sĩ lớn thứ 2 (sau Luxembourg). Ngược lại, ở Chile, Liên bang Nga, và Mexico học viên bậc tiến sĩ chỉ chiếm ít hơn 5% tổng số học viên và mức chi cho R&D tính trên mỗi học viên trong các cơ sở giáo dục đại học chưa đến 2000 USD.
Sự tương quan của chi tiêu cho R&D tính trên mỗi học viên trong các cơ sở giáo dục đại học có đào tạo tiến sĩ quốc tế là 0,69, cao hơn so với các cơ sở có đào tạo thạc sĩ quốc tế (0,57). Một điều thú vị là các khoản đầu tư R&D có liên quan chặt chẽ với việc tuyển sinh học viên quốc tế cho chương trình đào tạo tiến sĩ, mà không liên quan đến tuyển sinh cho các chương trình đào tạo tiến sĩ nói chung: sự tương quan giữa chi tiêu cho R&D tính trên mỗi học viên trong các cơ sở giáo dục đại học và tỷ lệ tuyển sinh học viên sở tại cho chương trình đào tạo tiến sĩ là gần bằng 0.
Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức và các cộng đồng tri thức đã khiến hoạt động nghiên cứu và các dịch vụ chuyên nghiệp hàng đầu ngày càng được quốc tế hóa.
Mức đầu tư cho R&D trong giáo dục đại học có thể thu hút học viên quốc tế bậc thạc sĩ và tiến sĩ bởi vì điều này nâng cao chất lượng đào tạo nghiên cứu trong các trường đại học của một quốc gia, cũng như nâng cao năng lực nghiên cứu và tầm nhìn của họ. Nhưng ngoài ra, cũng có những yếu tố khác thu hút học viên quốc tế, chẳng hạn như tính sáng tạo của nền kinh tế, hoặc các yếu tố xã hội và văn hóa liên quan đến một xã hội tri thức phát triển mạnh. Những yếu tố khác này có thể hấp dẫn không chỉ đối với học viên theo học chương trình tiến sĩ hoặc thạc sĩ định hướng học thuật, mà còn đối với những học viên ghi danh vào các chương trình thạc sĩ chuyên nghiệp hoặc tương đương.
Tóm lại, một tỷ lệ lớn các học viên bậc thạc sĩ và tiến sĩ trong các nước OECD là học viên quốc tế. Xu hướng lựa chọn điểm đến của học viên quốc tế ở các bậc học này là các nước đầu tư nguồn lực đáng kể vào R&D trong cơ sở giáo dục đại học. Điều này tạo cơ hội để các nước trong tương lai thu hút một lực lượng lao động trình độ cao, đặc biệt là trong khoa học và công nghệ. Một số nước đã thực hiện điều này: ở Luxembourg, Hà Lan, NewZealand, Thụy Sĩ và Hoa Kỳ hơn một nửa học viên ghi danh vào học các chương trình tiến sĩ khoa học, kỹ thuật, nông nghiệp là học viên quốc tế.