Leila Youssef
Leila Youssef là Cộng tác viên nghiên cứu tại Trung tâm nghiên cứu CRED, Trường Kinh doanh ESA, Li-Băng. Email: Youssef.l@esa.edu.lb
Các phần trong bài viết này dựa trên cuốn sách được xuất bản gần đây: “Giáo dục Đại học Đại chúng và thay đổi Thị trường lao động cho Sinh viên tốt nghiệp: Giữa Khả năng Tuyển dụng và Việc làm”, có thể tìm thấy tại:
elgaronline.com/edcollbook/book/9781035307159/9781035307159.xml
Li Băng gần đây đối mặt với tình trạng trì trệ chính trị, bất ổn xã hội và suy thoái kinh tế. Sự mất cân đối giữa lựa chọn giáo dục và nhu cầu của thị trường lao động gây ra tình trạng chảy máu chất xám và tỷ lệ thất nghiệp cao trong sinh viên tốt nghiệp đại học. Với một thị trường định hướng dịch vụ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với triển vọng tạo việc làm thấp, cùng với sự không hài lòng của nhà tuyển dụng về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp đại học, tình hình việc làm cho sinh viên tốt nghiệp gặp nhiều khó khăn. Bài viết này nhằm mục đích đánh giá mối liên hệ giữa giáo dục đại học và thị trường lao động trong bối cảnh bất ổn chính trị và kinh tế.
Lý thuyết về vốn nhân lực xác định điểm giao nhau giữa giáo dục đại học và thị trường lao động bằng cách giả định rằng sinh viên tốt nghiệp sẽ có cơ hội việc làm tốt hơn và mức lương cao hơn. Lý thuyết này, được phát triển và thử nghiệm ở các nền kinh tế tiên tiến, chỉ ra rằng các chính sách công giúp nâng cao hiệu quả kinh tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Trong các nền kinh tế quy mô nhỏ thiếu các chính sách hiệu quả nhưng có hệ thống giáo dục đại học lớn như ở các nước phát triển, các giả định của lý thuyết vốn nhân lực trở nên đáng nghi ngờ. Nhu cầu gia tăng ở các nền kinh tế đang phát triển cùng với việc chính phủ không đủ năng lực tài chính dẫn đến xã hội hoá giáo dục đại học. Bất bình đẳng tiếp tục tồn tại do gánh nặng chi phí giáo dục được chuyển sang người học – những người xuất thân từ các tầng lớp xã hội thấp với ít cơ hội hơn, phải lựa chọn các cơ sở giáo dục đại học (HEIs) chất lượng thấp, từ đó làm gia tăng rủi ro về triển vọng việc làm của họ. Thực tế chứng minh sự không hài lòng của nhà tuyển dụng về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp, đặc biệt đối với những người tốt nghiệp các trường kém danh tiếng. Thời gian và tốc độ hội nhập vào thị trường lao động không chỉ phụ thuộc vào trình độ học vấn mà còn phụ thuộc vào danh tiếng trường, ngành học, giới tính, trải nghiệm và địa vị xã hội của cha mẹ, v.v…
Bối cảnh Li Băng: Giữa thất nghiệp và chảy máu chất xám
Li Băng, một quốc gia Trung Đông với đa dạng kinh tế xã hội, tôn giáo và nhân khẩu học, đặc trưng bởi một bức tranh giáo dục đại học khác biệt. Hệ thống bao gồm các HEIs công lập và tư thục; trong đó HEIs tư thục chiếm thị phần lớn và cạnh tranh với một trường đại học công lập – Đại học Li Băng (LU). Sự mở rộng ồ ạt diễn ra trong những năm 1990, trước khi Bộ Quản lý Giáo dục đại học được thành lập vào năm 1993, và được dẫn dắt bởi tham vọng chính trị nhằm đáp ứng nhu cầu học gia tăng, bỏ qua nhu cầu của thị trường lao động. Tất cả các trường đại học đều có chung một tiêu chí tuyển sinh, đó là Kỳ thi Tú tài Li Băng. Đại học Li Băng và các cơ sở giáo dục tư tinh hoa có thêm các bài kiểm tra học thuật. Đối với các khoa không áp dụng kỳ thi tuyển sinh đầu vào, việc tuyển chọn được thực hiện sau năm học thứ nhất. Việc tuyển sinh đại chúng căn cứ vào kết quả các kỳ thi ngoại ngữ, còn bị “thị trường hóa” cao hơn. Tỷ lệ trúng tuyển tăng qua các năm nghiêng về khu vực tư nhân đại chúng với 70.722 sinh viên trong năm học 2021 – 2022 (tăng 5% so với năm trước) so với 60.705 và 43.834 sinh viên tại LU và khối tư nhân tinh hoa, với mức giảm tương ứng là 11,1% và 6,06%.
Sau năm học 2019 – 2020, năm xảy ra đại dịch COVID-19, tỷ lệ trúng tuyển giảm 12,67% (trong năm học 2020 – 2021) và sau đó giảm 11,1% trong năm học 2021 – 2022 do những thách thức về tài chính và đảm bảo điều kiện học tập. Các trường đại học tinh hoa vốn có mức học phí cao nhất, có tỷ lệ trúng tuyển giảm so với khu vực đại chúng và LU với mức học phí phải chăng hơn.
Sinh viên ưa chuộng các chương trình truyền thống và các ngành không giới hạn chỉ tiêu, thể hiện qua nhiều năm liên tục, là hiệu ứng của lý thuyết thừa cung. Các ngành văn học và nhân văn, vốn có xu hướng theo đuổi chiến lược tuyển sinh không giới hạn, đã thu hút trong tám năm qua tỷ lệ sinh viên cao nhất, chiếm 26% và 14% sinh viên tại LU và khu vực đại học tư tương ứng trong năm học 2020 – 2021. Các ngành quản trị kinh doanh và kỹ thuật có tiêu chí trái ngược nhau trong các lĩnh vực khác nhau của hệ thống giáo dục đại học. LU và các trường tinh hoa có các kỳ thi học thuật, trong khi khu vực đại chúng linh hoạt hơn, không có kỳ thi học thuật đối với quản trị kinh doanh và kỳ thi tiêu chuẩn đối với kỹ thuật. Cả hai lĩnh vực đều có tỷ lệ trúng tuyển tăng trong năm 2020 – 2021, ở mức 30% và 22% đối với khu vực tư thục và LU. Tỷ lệ trúng tuyển thấp nhất là các ngành dịch vụ, mặc dù Li Băng là thị trường định hướng dịch vụ, với tỷ lệ giảm 0,5% và 1,6% tại LU và khối tư thục.
Bị mắc kẹt với năng suất thấp, thị trường lao động chỉ cung cấp những công việc không cạnh tranh và tăng trưởng thấp. Khoảng 90% doanh nghiệp Li Băng là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khu vực công không đóng góp tạo việc làm mới do hạn chế về ngân sách và dư thừa nhân lực, cùng với việc tuyển dụng bị chi phối bởi chủ nghĩa gia đình trị và tham nhũng. Tác động của nhiều cuộc khủng hoảng (đại dịch COVID-19, khủng hoảng kinh tế và vụ nổ Beirut năm 2020) càng hạ thấp triển vọng việc làm cho sinh viên tốt nghiệp đại học. Hậu quả của vụ nổ Beirut làm trầm trọng thêm tình hình vốn đã được đặc trưng bởi căng thẳng chính trị sâu sắc và khủng hoảng kinh tế ngày càng gia tăng. Vụ nổ không chỉ phá hủy khu vực cảng, dẫn đến tác động kinh tế tiêu cực lớn, cùng với những tình huống bất hạnh khác về con người và xã hội, mà còn bị quản lý sai lầm do các phe phái chính trị không thể hợp tác cùng nhau và thành lập một chính phủ thống nhất. Đồng nội tệ của đất nước này cũng trải qua một đợt phá giá thảm khốc: Đồng bảng Li Băng đã mất hơn 90% giá trị so với đô la Mỹ. Điều này gây ra siêu lạm phát với giá lương thực tăng hơn 500% và tỷ lệ nghèo đói tăng nhanh chóng, hiện ảnh hưởng đến khoảng 85% dân số. Tổng tỷ lệ thất nghiệp đạt 29,6% vào năm 2022, với khoảng 1/4 số người trưởng thành (trên 25 tuổi) thất nghiệp. Tất cả các lĩnh vực kinh tế đều bị ảnh hưởng bởi tình trạng sa thải và giảm lương. Khoảng 350.000 việc làm biến mất từ tháng 10/2019 đến tháng 6/2020 và phần lớn những người bị ảnh hưởng đều có bằng đại học. Không chỉ tỷ lệ thất nghiệp gia tăng mà tình trạng chảy máu chất xám cũng tăng cao, vì những sinh viên tốt nghiệp có kỹ năng không chấp nhận mức lương quá thấp như thế. Theo một nghiên cứu gần đây, mức lương trung bình hàng tháng của sinh viên tốt nghiệp đại học là 753 đô la Mỹ so với 600 đô la Mỹ đối với người có trình độ tiểu học. Nói tóm lại, việc đầu tư vào giáo dục đại học với mức học phí hàng năm từ 3.200 đến 27.000 đô la Mỹ không mang lại hiệu quả.
Hơn 56% dân số trong độ tuổi lao động không đáp ứng trình độ cho yêu cầu công việc. Chỉ có ba trường đại học đào tạo hiệu quả đáp ứng yêu cầu công việc. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy sự không hài lòng của nhà tuyển dụng về kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp, bao gồm kỹ năng làm việc, kỹ năng hành vi và kỹ năng xã hội. Nhà tuyển dụng quy trách nhiệm cho HEIs và tập trung tuyển dụng từ HEIs tinh hoa, vì họ thấy rằng khu vực đại chúng không cung cấp được các kỹ năng cần thiết. Bất chấp khoảng cách tuyển dụng này, sinh viên vẫn lựa chọn vào học các trường thuộc khu vực đại chúng, do hạn chế về tài chính và tin rằng giáo dục tư thục có thể mang lại một số đòn bẩy xã hội. Các nhà tuyển dụng không hài lòng với kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp và việc thiếu ứng viên đủ tiêu chuẩn do tình trạng chảy máu chất xám vẫn đưa ra mức lương gây tranh cãi, vì hầu hết các công ty không thể trở về với mức lương trước khủng hoảng. Chỉ một số rất ít công ty, chủ yếu là công ty đa quốc gia hoặc công ty có hoạt động ở nước ngoài, mới có thể vượt qua khủng hoảng và trả lương bằng đô la.
Hệ quả
Li Băng đang cố gắng nhưng không thành công đối phó với kết quả của sự thất bại trong quản trị hệ thống và thiếu trách nhiệm giải trình giữa các nhà lãnh đạo. Do hậu quả của sự tương tác phức tạp giữa tình trạng trì trệ chính trị, bất ổn xã hội và suy thoái kinh tế, người dân Li Băng đang ở trong tình trạng tuyệt vọng và không chắc chắn về tương lai của họ. Điều này dẫn đến việc di cư quy mô lớn để tìm kiếm cơ hội tốt hơn. Chảy máu chất xám không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố kinh tế vĩ mô mà còn bởi các yếu tố kinh tế vi mô liên quan đến sự tương tác giữa thị trường lao động và giáo dục đại học. Hầu hết sinh viên đang lựa chọn khu vực tư nhân đại chúng với hy vọng có kết quả việc làm tốt hơn, nhưng nhà tuyển dụng nghi ngờ về chất lượng kỹ năng của họ, không phù hợp với xu hướng quốc tế. Các HEIs không phải là đối tượng duy nhất phải chịu trách nhiệm. Chảy máu chất xám gia tăng là một chỉ số ngầm về năng lực, vì hầu hết sinh viên tốt nghiệp đều được đảm bảo cơ hội việc làm ở nước ngoài. Hầu hết các nhà tuyển dụng không đưa ra các lộ trình thu nhập hấp dẫn. Thực tế mức lương gần như nhau giữa sinh viên tốt nghiệp đại học và tiểu học là điều không thể chấp nhận. Sự hợp tác giữa các trường đại học và các công ty thật sự cấp bách hơn bao giờ hết. Cơ quan Việc làm Quốc gia, chịu trách nhiệm về chính sách việc làm, cần có vai trò tích cực hơn thông qua việc đánh giá nhu cầu của thị trường lao động. Để kiềm chế tỷ lệ thất nghiệp cao do nhiều cuộc khủng hoảng, cần yêu cầu hành động ngắn hạn như chương trình thị trường lao động tích cực nhằm đào tạo nâng cao kỹ năng của sinh viên tốt nghiệp.