Claire Callender là Giáo sư ngành Giáo dục đại học tại Viện Giáo dục, Trường College London, và tại Trường College Birkbeck, Đại học London, Vương quốc Anh. E-mail: c.callender@bbk.ac.uk.
Bài viết này dựa trên Báo cáo độc lập về Đánh giá Giáo dục cho người trên 18 tuổi và Tài trợ (Chính phủ Anh, 2019), có tại https://www.gov.uk/government/publications/post-18-review-of-education-and-funding-independent-panel-report.
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2017 ở Vương quốc Anh, bên đối lập – Đảng Lao động – đề nghị bãi bỏ học phí giáo dục đại học. Đảng Lao động đã được đền đáp bằng một kết quả bầu cử tốt hơn so với dự kiến, đặc biệt là từ những cử tri trẻ tuổi. Đảng Bảo thủ thắng cử một cách sít sao. Trong một phản ứng tức thời, Thủ tướng Theresa May trong tháng 2 năm 2018 ủy quyền cho Philip Augar, chủ một ngân hàng và là nhà sử học, chủ trì một cuộc đánh giá tình hình giáo dục cho đối tượng trên18 tuổi và hệ thống tài trợ. Các điều khoản tham chiếu của nó, giới hạn ở Anh, là “tìm cách để đảm bảo rằng tất cả mọi người đều có thể tiếp cận hệ thống giáo dục cho người trên 18 tuổi, và hệ thống giáo dục này phải được hỗ trợ bởi một hệ thống cung cấp tài chính và công việc cho sinh viên và những người nộp thuế, và phải thúc đẩy sự lựa chọn và cạnh tranh trong khu vực, và khuyến khích phát triển những kỹ năng mà đất nước cần”. Báo cáo của Augar, Báo cáo độc lập để Đánh giá Giáo dục cho người trên 18 tuổi và Tài trợ cuối cùng đã được xuất bản vào tháng 5 năm 2019 .
Thông điệp cốt lõi của Báo cáo Augar là cần phải đối mặt với những khác biệt giữa 50% thanh niên được hưởng giáo dục đại học và 50% còn lại. Giải quyết sự chia rẽ này “là vấn đề công bằng và bình đẳng và có khả năng mang lại lợi ích kinh tế và xã hội đáng kể cho các cá nhân và cho đất nước”. Vậy báo cáo có thành công không?
Tài trợ cho giáo dục đại học
Hãy bắt đầu với 50% thanh niên đang học đại học (higher education – HE) – “những người được quan tâm”. Báo cáo cung cấp những đánh giá chính thức đầu tiên của năm 2012 và những cải cách tiếp theo trong tài trợ giáo dục đại học, cho thấy học phí đã tăng đến 9250 bảng một năm, trợ cấp sinh hoạt bị bãi bỏ, khoản vay nợ của sinh viên tăng thành 47 ngàn bảng đối với chương trình bằng cấp ba năm. Báo cáo này phần nào là phản ứng trước những tranh luận ngày càng gay gắt xung quanh chi phí và giá trị của giáo dục đại học nảy sinh từ những cải cách và việc tăng cường giám sát của hệ thống tài trợ.
Những khuyến nghị chính và những nội dung được quan tâm nhiều nhất đều tập trung vào việc tài trợ cho sinh viên HE. Trong đó có việc giảm mức học phí tối đa mà các trường đại học có thể thu từ 9250 bảng xuống 7500 bảng mỗi năm, với hy vọng rằng chính phủ sẽ bù đắp phần thiếu hụt học phí bằng cách tăng thêm tài trợ giảng dạy cho các trường đại học. Nhưng khó mà hình dung việc chính phủ sẽ bù đắp khoản thiếu hụt này, bởi vì còn những yêu cầu khác cần đáp ứng – điều này có nguy cơ đe dọa tới khả năng sống còn về mặt tài chính của những trường đại học chuyên giảng dạy có nguồn thu chính là học phí. (Chính phủ vẫn chưa chính thức trả lời chi tiết về những khuyến cáo của báo cáo Augar, vì đang còn bận rộn với Brexit).
Tất cả sinh viên đại học đều có quyền vay từ nguồn hỗ trợ của chính phủ để trang trải các khoản học phí, và 96% tổng số sinh viên vay từ nguồn này. Do đó, khoản vay nợ của sinh viên sẽ giảm xuống nếu khuyến nghị của Augar về việc giảm học phí được thực hiện, nhưng điều này cũng kéo theo vài vướng mắc. Hiện tại, sinh viên tốt nghiệp chỉ bắt đầu trả nợ khi có thu nhập đạt mức 25 ngàn bảng, và được xóa bất kỳ khoản nợ nào tồn đọng sau 30 năm. Augar khuyến nghị giảm ngưỡng thu nhập xuống 23 ngàn bảng và nới rộng thời hạn trả nợ cho sinh viên lên tới 40 năm đối với các khóa nhập học mới từ 2021-2022 . Theo các đề xuất này, sinh viên sẽ tốt nghiệp với số tiền vay nợ ít hơn, nhưng họ sẽ phải bắt đầu trả nợ sớm hơn và thời gian phải trả nợ cũng dài hơn, gây khó khăn cho những sinh viên tốt nghiệp có thu nhập thấp. Augar đề nghị áp dụng lại khoản tiền trợ cấp 3 ngàn bảng cho sinh viên có thu nhập thấp để họ trang trải chi phí sinh hoạt thường xuyên, và cũng sẽ làm giảm bớt số nợ của những sinh viên này. Sự thay đổi này sẽ giải quyết vấn đề bất bình đẳng hiện nay của những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, những người tốt nghiệp với mức vay nợ lớn hơn so với những sinh viên có hoàn cảnh thuận lợi hơn, vì họ có thể vay nhiều hơn cho việc sinh hoạt của mình.
Tất cả sinh viên đại học đều có quyền vay từ nguồn hỗ trợ của chính phủ để trang trải các khoản học phí, và 96% tổng số sinh viên vay từ nguồn này. |
Tuy nhiên, những khoản trợ cấp đang được đề xuất này kém hào phóng hơn rất nhiều so với những khoản trợ cấp trước kia đã bị hủy bỏ vào năm 2015. Điều đáng lo ngại hơn là đề xuất này và những khuyến nghị khác tác động đều khắp đến các kỳ trả nợ kéo dài suốt đời. So với hệ thống hiện tại, những sinh viên tốt nghiệp có thu nhập cao nhất (chủ yếu là nam giới) sẽ thấy khoản tiền phải trả nợ từng kỳ giảm đáng kể. Những người có thu nhập trung bình (chủ yếu là phụ nữ, giáo viên và điều dưỡng viên) sẽ thấy số tiền phải trả nợ từng kỳ tăng lên nhiều, và số sinh viên tốt nghiệp có thu nhập thấp hơn hàng kỳ cũng phải trả nợ nhiều hơn. Đó là những tác động ngược.
Những kiến nghị khác bao gồm việc khuyến khích các trường đại học “chuyển sang” những bằng cấp giá trị thấp hơn và cung cấp các khóa học phù hợp hơn với nhu cầu của nền kinh tế. Giả định về việc “giá trị” của các khóa học có thể đo bằng mức lương của sinh viên tốt nghiệp là quá đơn giản và mang tính cơ học, bỏ qua những lợi ích rộng lớn hơn của giáo dục đại học.
Tài trợ cho giáo dục nghề sau phổ thông
Trở lại với 50% những người không được học đại học – những người “bị bỏ quên“. Một điểm khác biệt đáng được hoan nghênh của bản báo cáo đó là chú trọng vào lĩnh vực giáo dục nghề sau phổ thông (further education – FE), tương tự hầu hết các trường cao đẳng cộng đồng ở Mỹ. Báo cáo tập trung vào cấu trúc thể chế của lĩnh vực FE và khuyến nghị thực hiện những sửa đổi đồng bộ trong khung quy định và tài chính, được xem là nền tảng để tăng cường giáo dục kỹ thuật và nghề nghiệp. Báo cáo nhấn mạnh sự suy giảm tài trợ cho FE và giảm sút số lượng sinh viên, chỉ ra rằng “chủ yếu phản ánh sự sụt giảm mạnh số lượng người học, chi tiêu thực tế để đào tạo kỹ năng cho người lớn đã giảm khoảng 45% trong giai đoạn giữa 2009/10 và 2017/18. Đây là một trong những số liệu thống kê quan trọng nhất trong toàn bộ báo cáo này và không thể biện minh được cả về mặt kinh tế lẫn công bằng xã hội”. Báo cáo Augar đề xuất một khoản bổ sung hàng năm 3 tỷ bảng tối cần thiết cho các trường cao đẳng FE và các cơ sở đào tạo nghề khác, cũng như 1 tỷ bảng tăng vốn thúc đẩy một lần. Ngoài ra, báo cáo còn đề xuất hỗ trợ tài chính toàn diện hơn cho sinh viên học cao đẳng, bao gồm cả các khoản vay học tập suốt đời. Cuối cùng, những khoản tài trợ mới sẽ giúp cân bằng lại hệ thống đào tạo cho người từ 18 tuổi, để FE không còn nghèo hơn HE và nguồn tài trợ chuyển dịch từ các trường đại học sang FE và đào tạo nghề. Do đó, đề xuất đóng băng mức học phí HE và tài nguyên trung bình tính theo đầu sinh viên trong ba năm có thể được biện minh là cách để tăng đầu tư vào FE. Khoản tài trợ thêm này cho FE có thể có tác động chuyển đổi đối với mảng giáo dục cho người từ 18 tuổi bị lãng quên này và cung cấp những cơ hội đào tạo và giáo dục cần thiết để thay thế giáo dục đại học. Nhưng liệu điều này có nên làm ảnh hưởng tới HE? Có nên để HE đối đầu với FE?
Kết luận
Nhìn chung, Báo cáo Augar là một mớ hỗn độn. Báo cáo rất chi tiết nhưng hạn chế. Báo cáo chứa đựng những phân tích cẩn thận, sâu sắc, nhưng lại không đưa ra bằng chứng cho những phân tích đó. Cần có những thay đổi táo bạo hơn để giải quyết những vấn đề mà báo cáo đang tìm cách khắc phục. Những khác biệt giữa 50% người học đại học và phần còn lại có khả năng vẫn tiếp tục tồn tại. Những hạn chế tài chính của Augar cùng với việc thiếu tầm nhìn đã khiến cho báo cáo không được toàn diện – không thấy việc cung cấp giáo dục cho người từ 18 tuổi là một phần của một hệ thống tổng thể phục vụ toàn bộ 100%, không phải là HE phục vụ 50% và FE phục vụ 50% còn lại. Báo cáo Augar hoàn toàn không đề cập đến mối quan hệ giữa FE và HE hoặc giữa giáo dục học thuật và dạy nghề. Những lợi ích từ gói cải cách mà báo cáo đề xuất còn hạn chế, không đưa ra được giải pháp cho nhiều vấn đề chính, và gây ra những bất thường mới.
Không rõ liệu có khuyến nghị nào trong báo cáo của ông Augar sẽ được thực hiện hay không. Tương lai của bản báo cáo này bị ảnh hưởng bởi thực tế là báo cáo do Thủ tướng May ủy quyền nhưng nay bà đã bị lật đổ. Có thể các khuyến nghị của báo cáo sẽ bị lấp liếm bởi đảng Bảo thủ hoặc những người khác trong thời gian tới. Tuy nhiên, Bộ trưởng mới được bổ nhiệm chịu trách nhiệm về các trường đại học, ông Jo Johnson (em trai của Thủ tướng mới) đã bị bà May sa thải vì ông ta không ủng hộ bài đánh giá kiểu đó. Ông phê phán Báo cáo Augar khi xuất bản, nói rằng việc giảm học phí xuống còn 7500 bảng sẽ tạo ra một lỗ hổng tài chính mà Kho bạc sẽ không đáp ứng được. Johnson dự đoán những thay đổi như thế sẽ gây bất ổn về tài chính cho các trường đại học, đảo ngược tiến trình mở rộng cơ hội tiếp cận, và chủ yếu mang lại lợi ích cho những sinh viên tốt nghiệp có thu nhập cao hơn. Johnson đã chia sẻ đó là “Chính sách tồi, các nhà chính trị tồi tệ”.